Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá rô thương phẩm
Cá rô sống được rộng rãi ở môi trường nước ngọt, thịt cá ngon, được nhiều người ưa thích. Cá rô đồng thương phẩm giá từ 15.000 - 33.000đ/kg, là đối tượng nuôi giảm nghèo ở nông thôn. Cá rô đồng giống tự nhiên khá nhiều, nhưng nuôi thường bị hao hụt cao, cá còn sống mang nặng tính hoang dã nên thường đi khi có dòng nước chảy vào, thiếu chủ động giống cung cấp cho yêu cầu nuôi.
Sản xuất nhân tạo.
Chuẩn bị cá bố mẹ:
- Ao nuôi vỗ cá bố mẹ đợc chuẩn bị cải tạo từ tháng 11 - 1 dơng lịch, diện tích ao từ 50 m2 - 500 m2, mực nớc trung bình 1m.
- Chọn giống cá bố mẹ cỡ từ 40 -100g/con không bị xây xát, dị hình cá khoẻ mạnh, nuôi chung đực cái, mật độ 1kg cá/m2 ao.
- Cho cá ăn cám 60%, bột cá 38% và bột lá gòn 2% làm chất kết dính. Nấu một nồi bột lá gòn xong trộn bột cám vào vừa đặc cho cá ăn.
- Ngày cho ăn 3 - 5% so với trọng lợng thân, cá tái phát dục ăn 7%.
- 15 ngày kích thích bằng nước 1 lần, mỗi lần 1/3 ao.
- 30 ngày kiểm tra độ thành thục của cá, 15 ngày kiểm tra cho đẻ: Cá đực có bụng thon, se trắng khi vuốt nhẹ bụng. Cá bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục màu hồng. Cỡ cá 21g - 60g có 2.900 - 15.000 trứng. Một kg cá cái có 30 - 40 vạn trứng, tỷ lệ thụ tinh và nở trên 90%.
Kích thích cá sinh sản:
- Tiêm HCG liều 3000 - 4000 UI/gk hoặc LHRa 20 - 30mg/kg cá cái, cá đực tiêm nửa liều cá cái. Tiêm 1 liều vào lng hoặc xoang ngực. Cá đợc nhốt trước 2 giờ tiêm.
- Cho cá đẻ: Bắt từng cặp cá rô, cho đẻ ở xô chứa nước đường kính rộng 40 - 50cm, mực nước 8 - 10 cm, hoặc ở bể 3 - 4 kg/cá/m3 nớc. Thời gian hiệu ứng thuốc sau khi tiêm 7 - 16 giờ cá đẻ, cá đẻ ra sau 16 - 22 giờ nở tuỳ nhiệt độ.
ấp trứng:
- Trứng cá rô đồng mới đẻ ra có đường kính 0,4 - 0,8mm, trứng trương nước 0,8 - 1,1mm, trứng nổi tự do.
- ấp trứng ở xô, thau có nớc sâu 20 - 30cm, mật độ trứng ấp 3.000 trứng/lít nước, thay nước ngày 2 lần, thường xuyên vớt bỏ trứng ung ra.
- Sau 60 giờ trứng nở chuyển cá bột xuống ao ương.
Ương cá bột lên cá giống:
- Ao được cải tạo tốt, giảm lượng sình bùn, không còn dịch hại, bón vôi 10kg/100m2 ao, phơi nắng 2 - 3 ngày trước khi cắt nước qua ao bằng lưới lọc nước thất dày.
- Bón phân gà cho ao từ 10 - 15kg/100m2 hoặc dùng phân vô cơ đạm và lân supefos - fát theo tỷ lệ N/P=2/1 với lượng 200g/m3 nước. Bón lót 3 ngày trước khi thả cá ương, thả cá bột khi nước có màu xanh lá chuối non, sau đó 5 - 10 ngày bón một lần tuỳ màu nước.
- Mật độ cá ương 4 vạn - 6 vạn cá bột/100m2 ao. Thời gian ương 45 ngày, cỡ cá đạt 300 - 400 con/kg, tỷ lệ sống ương tốt trên 50%.
- Thức ăn: Mười ngày đầu cho ăn lòng đỏ trứng vịt luộc chín tán nhuyễn và bột đậu nành pha loãng nấu chín, số lượng trứng vịt và 10 gam bột đậu nành cho 1 - 2 vạn cá bột ngày, ngày cho ăn 4 lần. Sau đó cho cá ăn cám 30%, bột đậu nành 30%, bột cá 30%. Khẩu phần cho ăn: Khởi điểm cho ăn 100g/vạn cá/ngày, sau đó tuỳ theo khả năng bắt mồi của cá mà tăng giảm khẩu phần cho ăn, nhưng khi cá có cơ quan hô hấp phụ (20 ngày) nên tăng lượng thức ăn và bón phân. Thức ăn được nấu chín và hoà tan trong nước và rãi đều trên mặt ao.
- Thời gian ương cá cần diệt bọ gậy và cấp thêm nước vào ao do hao hụt. Theo dõi môi trường, sự tăng trưởng và bệnh cá, ngưng bón phân và giảm cho cá ăn khi tảo trong ao phát triển mạnh thể hiện qua mầu nước và cơ quan hô hấp phụ của cá.
- Cá giống được đánh bắt nhẹ nhàng, chuyển nhanh đến ao nuôi thịt, cỡ cá 300 - 400 con/kg.
Sản xuất giống cá và nuôi cá thịt tại ao:
- Ao được cải tạo tốt, bón vôi và bón phân gây màu nước, diệt tạp kỹ, cho nước vào 0,5m, trước thả cá 3 ngày.
- Cá bố mẹ đã thành thục trứng và sự tốt, bắt từng cặp thả vào ao, mật độ 1 cặp 5 - 10m2 ao. Dâng nước lên đến 1m, cá rô được nước mới kích thích đẻ trong ao. Cho cá ăn như trên, sau đó cho phân heo, cháo tấm, cám, bột cá nấu, cũng được lượng cá giống và cá thịt khá lớn, nhưng tỷ lệ sống thấp hơn sinh sản nhân tạo.
Nuôi cá rô thương phẩm ở ao.
- Diện tích ao nuôi cá rô đồng từ 100 - 2000m2, mức nước sâu trung bình 1m. Ao phải gần nơi cấp nước, có nguồn nước tốt suốt thời gian nuôi. Ao có bộng cấp nước và thoát nước càng tốt, bộng phải có lới bịt chống cá dữ vào ăn cá rô. Ao được cải tạo như các ao nuôi cá khác: Dọn cây cỏ, vét sình bùn, xãm chặt các hang mội, bón vôi và phân vào ao, bờ đắp cao hơn mực nước cao nhất 0,5m, nơi bờ thấp có thể dùng lưới chắn kỹ... cho nước vào ao trước khi thả cá từ 5 - 7 ngày.
- Đề phòng cá rô đi, quanh bờ ao có lưới bao chắc chắn cao 0,5m. Có nơi nuôi tốt không cần lưới bao. Nơi không có lưới bao, những góc bờ ao, mặt đập, nơi có dòng nước chảy từ bờ xuống, trồng cây sả dầy cũng hạn chế cá bò đi.
- Mật độ cá nuôi 8 - 30 con/m2, trung bình 10 - 15 con/m2. Có thể nuôi ghép cá hường, cá mè trắng với cá rô để tận dụng tốt thức ăn dư, tỷ lệ cá ghép 1/10.
Thức ăn cho cá:
+ Nơi có phân heo, gà, chim cút cho cá ăn trực tiếp (lưu ý không cho nước đái heo xuống ao). Ao 500-1.000m2 có thể sử dụng phân heo 10-20 con, thực tế theo sức ăn của cá mà tăng hoặc giảm thức ăn. Nếu phân cho cá ăn thiếu cần bổ sung thức ăn chế biến. Trước khi thu hoạch cá 2-3 tháng, ngưng cho cá ăn phân mà cho cá ăn bằng thức ăn chế biến để cá sạch, béo. Thức ăn chế biến 3 - 5% trọng lượng cá, tuỳ theo cá ăn mà tăng giảm.
+ Cho cá ăn bằng thức ăn chế biến: Bột đầu tôm, bột cá ruốc, cá tạp, ốc lấy ruột, phụ phế liệu của lò sát sinh, bột đậu nành, tỷ lệ đạm 30% + cám mịn và xác đậu nành 60% + tấm 7% + 3% bột lá gòn + vitamin (Kulactic, Premit, VTMC...) Chế biến thức ăn: Thức ăn thô (cá tạp, cua, ốc) được nghiền nhỏ. Nấu cháo tấm với bột cá nhừ, cho bột gòn vào, nếu có xác đậu nành nấu riêng, trộn cám và vitamin vào thức ăn vừa khô đặc. Có nơi cho 10% rau muống thái mịn thay cho cám, được nấu nhừ với cháo.
+ Cho cá ăn: Lúc cá còn nhỏ chưa phân đàn, cho thức ăn vào sàn ăn. Khi cá lớn hơn, cá phân đàn rải thức ăn đều để cá nhỏ, cá lớn đều được ăn. Tỷ lệ ăn 3 - 5% trọng lượng cá, ngày ăn một lần vào sáng.
Quản lý chăm sóc cá nuôi:
+ Môi trường nước nuôi, nước có màu xanh lá chuối non đến xanh nhạt, nếu màu sậm hơn có mùi hôi là phải thay nước. Trung bình 7 - 15 ngày là phải thay nước 1 lần. Kiểm tra thức ăn d hay thiếu bằng sàn và quan sát cá ăn để có điều chỉnh kịp thời. Theo dõi hoạt động và ăn mồi của cá mà tăng chất kích thích VTM, thuốc phòng trị bệnh cho cá. Kiểm tra bộng, bờ, lưới bao quanh, địch hại trộm bắt cá nuôi.
- Cá nuôi 6 tháng đạt 50 - 100g/con, 9 tháng đạt 100 - 150g/con. Thời gian nuôi cá phân đàn, nếu có điều kiện chọn cá có trọng lượng lớn nuôi riêng. Cho ăn tập trung để bán loại cá lớn tăng vòng quay. Số cá còn lại trong ao cùng lứa với nhau phát triển nhanh. Cần có ghi chép hàng ngày theo dõi, cuối vụ có tổng kết rút kinh nghiệm.
(Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam Ngày 05/02/2001, Số 21 (1106), tr.6)
xem kỹ lại đi pa!
Trả lờiXóa