Thứ Hai, 7 tháng 12, 2009
Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009
Nuoi Tham Canh Ca Ro Phi
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHỆP
&
GVHD: ThS.NGUYỄN THỊ MỸ VÂN NHÓM SV THỰC HIỆN:
NGUYỄN VĂN TẠC
PHẠM DUY
TRẦN HỮU THỌ
NGUYỄN THỊ HẰNG
LƯU THẾ NGUYỄN
DƯƠNG VĨNH BẢO
NGUYỄN HOÀNG NHÂN
Cần Thơ 22/10/2009
Phụ lục:
1-MỞ ĐẦU
2-GIỚI THIỆU VỀ CÁ RÔ PHI
3-CHỌN VỊ TRÍ NUÔI
4-THIẾT KẾ XÂY DỤNG AO NUÔI
5-CON GIỐNG
6-THỨC ĂN
7-QUẢN LÝ CHĂM SÓC
8-THU HOẠCH
9-KẾT LUẬN
1. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, cá rô phi được thị trường thế giới đặc biệt ưa chuộng. Điều này đã thúc đẩy mô hình nuôi cá rô phi xuất khẩu phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia nhất là Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia, Philippines, Mexico, Brazil… Nhiều chuyên gia trong ngành nhận định nhu cầu sử dụng sản phẩm chế biến từ cá rô phi ở thị trường nước ngoài sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Đây là dấu hiệu tốt cho sự phát triển mô hình nuôi cá rô phi xuất khẩu ở nước ta.
Cá rô phi có thịt trắng và thơm ngon, dễ chế biến, có thể thay một số loại cá biển nên được đa số người tiêu dùng ưa chuộng. Nhu cầu nhập khẩu cá rô phi của một số quốc gia trong những năm gần đây tăng nhanh. Trong đó nước có số lượng nhập khẩu lớn nhất là Mỹ, sau đó là Nhật Bản ( chủ yếu nhập cá rô phi đỏ). Các nước châu Âu như: Anh, Đức, Pháp, Bỉ… và Ả Rập. Ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bộ thủy sản đã có chủ trương khuyến khích phát triển nghề nuôi cá rô phi ở các vùng, miền trong cả nước. Đặc biệt chú trọng mở rộng qui mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Cá rô phi xuất khẩu đòi hỏi phải có kích cỡ lớn. Do đó nên chọn giống cá đơn tính đực. Hiện nay cá rô phi Gift: Genetically Improved Favmed Tilapia được xem là dòng cá có chất lượng cao và được nhiều người nuôi chọn nuôi xuất khẩu. Đây là dòng cá đơn tính đực đã được cải thiện di truyền.
2. GIỚI THIỆU VỀ CÁ RÔ PHI.
2.1. Đặc điểm sinh học cá Rô Phi 2.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố
Cá rô phi có nguồn gốc từ Châu Phi thuộc họ Cichlidae, bộ cá vược Perciformes. Cho đến năm 1964, người ta mới biết khoảng 30 loài cá rô phi, hiện nay con số đó khoảng 100 loài, trong đó khoảng 10 loài có giá trị kinh tế. Những loài được nuôi phổ biến là cá rô phi vằn, rô phi xanh, rô phi đỏ và rô phi đen trong đó loài nuôi phổ biên nhất là cá rô phi vằn. Ngày nay cá rô phi không những được nuôi ở châu Phi mà đã được phát tán và nuôi ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong vài chục năm trở lại đây, chúng mới thừc sự trở thành loài cá nuôi công nghiệp, sản lượng lớn và giá trị kinh tế cao. Cá rô phi vằn có tên khoa học là Oreochromis niloticus, là loài cá có thịt ngon, giá trị thương phẩm cao, nhanh lớn và dễ nuôi ở các mô hình nuôi khác nhau. Kết quả nghiên cứu những năm gần đây cho thấy nuôi đơn cá rô phi hay nuôi ghép với các loài cá khác, cá sinh trưởng nhanh và rất ít khi bị bệnh. Cá rô phi có khả năng chống chịu tốt với các môi trường sống khác nhau và cho hiệu quả kinh tế cao.
Dựa vào đặc điểm sinh sản người ta chia cá rô phi thành 3 giống:
.Tilapia( cá đẻ cần giá thể)
Sarotherodon ( cá bố hay cá mẹ ấp trứng trong miệng)
Cá rô phi Oreochromis ( cá mẹ ấp trứng trong miệng) Cá rô phi hiện nay đang nuôi phổ biến ở Việt Nam thuộc: Bộ cá Vươc Perci Forms.
Họ: Cichlidae Giống: Oreochromis
Loài cá rô phi vằn Oniloticus Hiện nay có 3 loài chính được phổ biến tại Việt Nam: cá rô phi cỏ Oreochromis Mossambicus. Được nhập vào Việt Nam năm 1953 qua ngã Thái Lan. Cá rô phi vằn ( cá rô phi Đài Loan O. nilolicus) được nhập vào Việt Nam năm 1974 từ Đài Loan. Cá rô phi đỏ (red Tilapia ) có màu hồng được nhập vào Việt Nam năm 1985 từ Malaixia.
2.1.2. Đặc điểm về hình thái:
Cá rô phi có thân hình màu hơi tím, vảy sáng bóng có 9-12 sọc đậm song song nhau từ lưng xuống bụng. Vi đuôi có màu sọc đen sậm song song từ phía trên xuống dưới và phân bố khắp vi đuôi. Vi lưng có những sọc trắng chạy song song trên nền xám đen. Viền vi lưng và vi đuôi có màu hồng nhạt.
*.Ðặc điểm hình thái một số giống cá rô phi nuôi phổ biếnLoài cá rô phi vằn Oreochromis niloticus: Toàn thân phủ vảy, ở phần lưng có màu xám nhạt, phần bụng có màu trắng ngà hoặc xanh nhạt. Trên thân có từ 7-9 vạch chạy từ phía lưng xuống bụng. Các vạch đậm dọc theo vây đuôi ở từ phía lưng xuống bụng rất rõ (hình 1A). Cá rô phi vằn là loài có kích cỡ thương phẩm lớn, lớn nhanh và đẻ thưa hơn cá rô phi đen. Ðây là loài được nuôi phổ biên nhất trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay. Loài cá rô phi đen Oreochromis mossambicus: Toàn thân phủ vảy, vảy ở lưng có màu xám tro đạm hoặc xanh đến hơi nhạt. Phần bụng có màu trắng xám hoặc xám ngà. Trên thân và vây đuôi không có các sọc chạy từ phía lưng xuống bụng như ở cá rô phi vằn. Cá rô phi đen (còn cọi là cá rô phi cỏ, rô phi sẻ) là loài lớn chậm, kích cỡ thương phẩm nhỏ, đẻ mau nên không được ưa chuộng. Ngoài ra còn một số giống cá rô phi khác như cá rô phi đỏ (cá diêu hồng)
cũng được nuôi khá phổ biến hiện nay, đặc biệt là ở ÐBSCL.
C
A) Rô phi vằn B) Rô phi đen C)cá điêu hồng
Hình 1:Hình thái ngoài của cá rô phi vằn và cá rô phi đen Thức ăn
2.1.3. Đặc điểm môi trường:
các loài cá rô phi hiện đang nuôi có đặc điểm sinh thái gần giống nhau.
· Nhiệt độ: rất cần thiết cho sự phát triển của cá rô phi từ 22-350 C. Thích hợp nhất 25-320 C. Khả năng chịu đựng với biến đổi cũng rất cao từ 8-420 C. Cá chết rét ở 5.50 C và bắt đầu chết nóng ở 420 C.Nhiêt độ càng thấp thì cá càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi ro nhiễm bệnh.
· Độ mặn: cá rô phi là loài rộng muối , chúng có thể sống được trong môi trường nước sông, suối , đập tràn , hồ ao nước ngọt, nước lợ và nước mặn có độ muối từ 0-40%0 . Trong môi trường nước lợ (độ mặn10-25%0) cá tăng trưởng nhanh, mình dày thịt thơm ngon.
· Độ pH: môi trường có độ pH 6.5-8.5 thích hợp cho cá rô phi, nhưng cá có thể chịu đựng trong môi trường có độ pH 4-9
· Oxy hòa tan: Cá rô phi có thể sống được trong ao, đìa có màu nước đậm. mật độ tảo dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ gây hiện tượng thiếu oxy cao. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước của cá rô phi trên 1mg/l, ngưỡng gây chết 0,3mg/l.
2.1.4. Dinh dưỡng:
- Cơ quan tiêu hóa: hàm trên và hàm dưới có nhiều răng ngắn, nhỏ xếp thành hàng. Răng hầu gồm 2 tấm trên và một tấm dưới có tác dụng nghiền nát thức ăn. Lược mang ngắn dạ dày túi nhỏ. Ruột dài gấp nhiều lần so với thân cá.
Tính ăn:cá có tính ăn tạp. Khi còn nhỏ cá rô phi ăn sinh vật phù du ( tảo và động vật nhỏ) là chủ yếu ( cá 20 ngày tuổi kích thước khoảng 18mm). Khi trưởng thành cá ăn mùn bã hữu cơ lẫn tảo lắng ở đáy ao, ăn ấu trùng, thực vật thủy sinh. Tuy nhiên trong nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc, bột cá khô, bột bắp. bột khoai, bột lúa, cám mịn, bã đậu nành, bã đậu phộng. Trong thiên nhiên cá thường ăn từ tầng đáy có mức sâu từ 1-2m.
Hình2: Thức ăn tự nhiên của cá rô phi: ÐVPD, TVPD và động vật đáy
2.1.5. Sinh trưởng:
Tốc độ lớn của cá rô phi phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, thức ăn, mật độ thả và kỹ thuật chăm sóc. Khi nuôi thâm canh cá lớn nhanh hơn khi nuôi bán thâm canh hay là nuôi ghép.Cá Rô Phi vằn và Rô Phi Đỏ lớn nhanh hơn cá Rô Phi Trắng. Sau 1 tháng tuổi cá con đạt trọng luọng 2-3g/con, sau 2 tháng tuổi đạt 10-12g/con. Sau 5-6 tháng nuôi cá Rô Phi Vằn đực có thể đạt 200-250g, cá cái 150-200g. Thời kỳ sinh trưởng nhanh ở 3-4 tháng đầu, trong cung điều kiện nuôi cá đực lớn nhanh hơn cá cái. Sau 1 năm nuôi cá đạt từ 200-500g/con.
2.1.6. Đặc điểm Sinh sản:- Thành thục sinh dụcTrong điều kiện ao nuôi cá rô phi thành thục sinh dục vào tháng thứ 3, 4 khi cá có trọng lượng thông thường là100-150g/con (cá cái). Tuy vậy kích thước thành thục sinh dục của cá rô phi phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc, điều kiện nhiệt độ và độ tuổi. Cá nuôi trong mô hình thâm canh năng suất cao cá cái tham gia sinh sản lần đầu sinh sản khi trọng lượng đạt trên 200g trong khi đó ở điều kiện nuôi kém, cá cái bắt đầu đẻ khi trọng lượng cơ thể mới khoảng 100g.
- Cá Rô Phi hầu như sinh sản quanh năm, có thể đẻ từ 6-11 lần trong năm ở nhiệt độ 23-250C, khoảng cách giữa 2 lần đẻ 30 ngày
- Khi sinh sản cá đực làm tổ ở đáy ao, có hình lồng chảo đường kính khoảng 30cm. Trứng nở sau 4-5 ngày. Cá cái ngậm trứng ấp trong miệng và cá con mới nở đến khi hết noăn hoàng (9-10 ngày) thời gian này cá cái không bắt mồi nên cá gầy,, không lớn. Sau đó cá con sống độc lập
Trung bình cá cái có trọng lượng 200-250g đẻ được 1000-2000 trứng.
3. CHỌN VỊ TRÍ NUÔI.
Hình3:Bản Đồ Vị Trí Ao Nuôi
Với diện tích 1000m2. mảnh đất thuộc địa phận Tứ Giác Long Xuyên. Thuộc Xã Phú Thuận, Huyện Thoại Sơn, Tỉnh An Giang.
Vùng đất bị nhiểm phèn sắt, Ph≤6,5, được tôn tạo từ đất ruộng, không bị nhiễm mặn, không bị nhiễm bẫn, không nhiễm độc, giữ nước tốt, không rò rỉ .
Có điều kiện tự nhiên thuận lợi như:
+ Giao thông thuận lợi: trước mặt là Quốc Lộ 80 thuận lợi cho việc đi lại.
+ Trước mặt có con Sông Cái: tạo điều kiện cấp tiêu nước dể dàng.
+ Nằm xa khu công nghiệp và các nguồn nước bẩn.
Là nơi có điều kiện lí tưởng để nuôi cá
III. THIẾT KẾ XÂY DỤNG AO.
1. Yêu cầ xây dựng
a. Yêu cầu về sinh vật : Ao phải thiết kế thích hộp với sự sinh trưởng và phát triển của đói tựơng nuôi. Mỗi loài nuội đòi hỏi môi trường nuôi khác nhau,ta khó có thể tạo ra một môi trường nuôi thỏa mản các điều kiện trên. Tuy nhiên trong thiết kể ta thừng chú ý đến các yếu tố sau: độ sâu, diên tích, độ trong, ánh sáng, chất nước:Ph, O2,CO2, độ mặn, hàm lượng chất hửu cơ, sinh cảnh: chất đáy, thực vật thủy sinh.
b. Yêu cầu về kĩ thuật quản lý: Ao phải xây dựng sao cho quá trình sản xuất dể dàng. Thuận tiện cấp tiêu nước nhanh chóng, thu hoạch triệt để, vận chuyển dể dàng.
Yêu cầu về kĩ thuật cong trình: xây dựng ao phải ổn dịnh và giá thành thấp. ao phải giữ được nước, được cá, không rò rỉ, sạt lở
Các thông số kỹ thuật:
• Ao nuôi có chiều dài 50m, rộng 20m.
• Hệ số mái 1.5
• Độ sâu cột nước 1.5m
• Độ cao bờ ao cao hơn mực nước hàng năm 0.5m
Hình 4. Mặt cắt bờ ao
Hình5. mặt bằng ao nuôi
4. Con giống
Chọn con giống có kích cỡ đồng điều, cỡ cá thả là từ 3-4cm
Cá khỏe mạnh không dị tật, dị hình, vi, vây, vẩy đầy đủ
Màu sắc sáng, các sọc trên thân rõ ràng
Lựa chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, uy tính, chất lượn(nguồn con giống ở địa phương để dể vận chuyển, cá ít bị sốc, giảm chi phí)
Mật độ cá thả: từ 30-40 con/m2
Vận chuyển cá: nếu vận chuyển nơi gần có thể dùng thau, chậu… nếu vận chuyển xa thì dùng túi nilong có bơm oxy.
Cách thả cá: : Thời điểm thả cá giống tốt nhất là lúc sáng sớm hoặc chiều mát trời.
Nếu vận chuyển bằng thau, chậu thì nghiêng thau, chậu cho nước trong ao vào từ từ cho cá thích nghi và để cho cá tự bơi ra ngoài.
Nếu vận chuyển bằng túi nilong thì ngâm túi trong ao từ 15-20 phút,sau đó mở miệng túi cho cá tự bơi ra.Trước khi thả cá có thể tắm cá bằng NaCl với nồng độ 2-3% thời gian từ 5-10 phút hoặc có thể sát trùng cá giống bằng kháng sinh (Aureomycin hoặc Oxytetracylin) nồng độ 10-15 ppm trong 5-10 phút hoặc Dùng Xanh Malachit nồng độ từ 1-4 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút hoặc dùng Formaline nồng độ 200-300 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút.
Hình 6. Vèo cá giống
5. Cho ăn
- Cho ăn toàn thức ăn công nghiệp dạng viên nén được chế biến riêng cho cá Rô Phi. Nên chọn loại nổi trên mặt nước trong thời gian dài để cá ăn triệt để. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều tối. Nên cho cá ăn vào giờ cố định.
Hình7. cách cho ăn
- Để cá phát triển tốt thì thức ăn cung cấp hằng ngày cho cá phải đảm bảo đủ lượng và chất, đặc biệt là hàm lượng đạm. Lượng thức ăn và hàm lượng đạm được tính theo trọng lượng của cá. Cá càng lớn thì lượng thức ăn và hàm lượng đạm càng giảm. Ta có công thức cho ăn trong bảng sau
Trọng lương trung bình g/con
Kích cỡ viên thức ăn nổi (mm)
Hàm lượng đạm trong thức ăn (%)
Khẩu phần ăn hàng ngày (% tổng trọng lượng cá trong ao)
5-10
Mảnh
30
10
10-100
1,5-2
28
5
100-150
2-2,5
26
3
150-300
2-2,5
22
2,5
>300
3
18
1,5-2
- Vì lượng thức ăn hàng ngày được tính theo trọng lượng của cá, nên định kỳ (1 tuần 1 lần) kiểm tra sự tăng trưởng của chúng bằng cách bắt cân ngẫu nhiên khoảng 30 con rồi tính trọng lượng trung bình. Sau đó ước lượng tổng trọng lượng của cá trong ao đẻ làm cơ sở xác định lượng thức ăn hàng ngày.
- Sử dụng thức ăn FIN.
- Thức ăn dạng viên nổi.
Trọng lượng tịnh : 25 kg
Số CBCL : GF-LA 114/06
Công ty: GREEN FEED VIETNAM CO., LTD - CÔNG TY 100% VỐN TỪ THÁI LAN
Nhà máy: XÃ NHỰT CHÁNH – HUYỆN BẾN LỨC – TỈNH LONG AN – VIỆT NAM
ĐT: (072) 632 881 – 633 373
FAX: (072) 632 877 – 633 374
Hình 8.FIN 25 6146 - Thức ăn cao cấp cho cá rô phi (Dùng cho cá từ 200g-500g).
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG
· Đạm tối thiểu: 25%
· Xơ tối đa: 7%
· Béo tối thiểu: 4%
· Ẩm tối đa: 11%
· Tro tối đa: 16%
· Muối: 2,5%
· Độ tan tối thiểu: 2 giờ
· Năng lượng trao đổi tối thiểu: 2.750 kcal/kg
THÀNH PHẦN CHÍNH
Bột cá, tấm gạo, cám gạo, cám mì, khô dầu đậu nành, acid amin, các chất bổ sung khoáng và vitamin
HƯỚNG DẨN SỬ DỤNG VÀ BẢO QUẢN
Loại cá
Mã số
Tên TM
Cỡ viên (mm)
Đạm (%)
(%) Cho ăn
<5
6106
Mini 40
A
0,7 – 1
40
7 - 35
5 - 10
6116
Mini 35
B
1 - 1,5
35
7 - 25
10 - 20
6126
Mini 30
C
1 - 2
30
5 - 7
20-200
6136
Fin27
D
2 - 4
27
3,5 - 6
200-500
6146
Fin25
E
3 - 4
25
2,5 - 4
>500
6156
Fin20
F
4 - 6
20
1,5 - 3
- Định kỳ (khoảng 2 tuần 1 lần) bổ sung VitaminC vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá. Hàm lượng Vitamin chiếm 1-2% trên tổng lượng thức ăn hàng ngày.
Hình 9. Vitamin C Antistress
Cách sử dụng:
- Liều lượng 1kg/200-300kg cá
- Trộn với thức ăn cho cá ăn
- Hàng tuần cần bón thêm phân đạm và lân cho ao để bổ sung thêm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Liều lượng sử dụng: 1kg đạm + 2kg lân cho 100m2 ao. Lưu ý khi cá đạt trọng lượng trên 100g/con thì không cần bón thêm phân. Cách bón phân hòa tan phân trong nước (nên hòa riêng từng loại) sau đó tạt đều khắp ao. Nên tạt vào thời thời giữa buổi sáng lúc nắng tốt.
- Để kích thích tính thèm ăn của cá, cứ khoảng 15 ngày thì ngưng cho ăn 1 ngày sau đó cho ăn lại. Trong ngày ngưng cho ăn, cá vẫn không bị đói vì chúng còn có nguồn thức ăn tự nhiên trong ao
- Mỗi khi cho ăn, cần theo dõi biểu hiện ăn cúa cá. Nếu thấy thăn còn thừa nhiều trên mặt nước thì lần sau nên giảm bớt lượng thức ăn. Nếu thấy cá ăn hết thức ăn rất nhanh thì nên tăng thêm lượng thức ăn
Hình:vèo ương cá giống
VI. Quản lý chăm sóc:
Quản lý môi trường nước:
Thay nước định kỳ theo con nước thủy triều.
Các chỉ tiêu hóa học, sinh học cần phải đảm bảo cụ thể:
.Nhiệt độ: 25-320c
.Độ pH: 6.5-8.5
. Độ mặn: 0%o
. Độ trong: 10-20 cm
.Hàm lượng oxy hòa tan: 4-9 mg/l
. Hàm lượng co2:10-30 mg/l
. Hàm lượng NH4: nhỏ hơn 1 mg/l
. Hàm lượng P04:0.5 mg/l
. Hàm lượng H2S:<=0.1mg/l
. Hàm lượng Fe ++: nhỏ hơn 0.2 mg/l
Quản lý bờ ao:
Thường xuyên kiểm tra bờ ao cống rãnh để tránh thất thoát cá trong ao.
Gia cố, nâng cấp bờ ao cho chắc chắn
Quản lý thức ăn:
Cho cá ăn đầy dủ lượng và chất, thời gian và cách cho ăn hợp lý
Tùy vào giai đoạn nuôi và trọng lượng cá mà có công thức cho ăn, khẩu phần ăn hợp lý
Quản lý mầm bệnh:
- Để phòng bệnh phát sinh ở cá rô phi nuôi thương phẩm, khi nuôi cá cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp: kết hợp giữa cải tạo vệ sinh môi trường ao nuôi với việc chọn con giống có sức đề kháng và không mang mầm bệnh và quản lý chặt chẽ chế độ ăn và sử dụng thức ăn.
- Cải tạo vệ sinh môi trường ao nuôi. Trước khi nuôi ao cá phải được làm cạn nước, vét bùn (mức bùn còn lại ở đáy ao không quá 10cm). Dùng vôi cải tạo đáy ao tăng dinh dưỡng cho ao và diệt các vật chủ trung gian gây bệnh cho cá. Dùng vôi nung CaO với lượng 10-15 kg/100m2 ao.
Hình 10. cải tạo ao bằng vôi
- Chọn giống cá nuôi đủ tiêu chuẩn chất lượng. Cá rô phi đơn tính đực dòng GIFT, cỡ cá đều, vây vẩy hoàn chỉnh, cá không dị hình và không có dấu hiệu bệnh lý. Cá khỏe mạnh bơi lội nhanh nhẹn.
Trước khi thả xuống ao, cá giống phải được khử trùng cơ thể bằng một trong 4 loại thuốc:
Dùng muối ăn NaCl nồng độ 2-3% tắm cho cá trong khoảng 5-10 phút hoặc có thể sát trùng cá giống bằng kháng sinh (Aureomycin hoặc Oxytetracylin) nồng độ 10-15 ppm trong 5-10 phút hoặc dùng Xanh Malachit nồng độ từ 1-4 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút hoặc dùng Formaline nồng độ 200-300 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút.
- Quản lý chặt chẽ chế độ ăn và môi trường trong quá trình nuôi.
- Dùng thức ăn chế biến công nghiệp có hàm lượng đạm từ 18-30% để nuôi cá rô phi thương phẩm.Ngày cho cá ăn ngày 2 lần, cho cá ăn ở nơi cố định để dễ kiểm tra theo dõi khả năng sử dụng thức ăn của cá để điều chỉnh cho phù hợp.
Thường xuyên vệ sinh môi trường ao nuôi bằng cách bón vôi xuống ao theo định kỳ nhằm ổn định pH và khử trùng làm sạch đáy ao. Có thể dùng từ 1-2 kg vôi (CaCO3 hoặc Ca(MgCO3)2) bón cho 100 m2 ao, định kì 15 ngày/lần. Đồng thời dùng thuốc phòng bệnh cho cá nuôi trước mùa phát triển bệnh.
îNhững loại bệnh thông thường trên cá rô phi và biện pháp phòng trị
Trong nuôi thâm canh cá rô phi, quản lý sức khỏe cá và môi trường nuôi. Cá rô phi là những loài cá nuôi ít bị sốc (stress) với biến đổi của môi trường và có khả năng kháng được một số bệnh, nhưng trong quá trình nuôi cũng phát một số bệnh ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thực phẩm. Việt Nam là nước trong khu vực Ðông Nam á, có khí hậu ấm áp và có đủ điều kiện để sản xuất cá rô phi hướng tới xuất khẩu, nhưng khí hậu nhiệt đới cũng là điều kiện cho bệnh tật phát triển. Trong quá trình ương nuôi cá giống đến nuôi cá thương phẩm cá rô phi thường
gặp một số bệnh như sau:
â Bệnh do vi khuẩn
¡ Bệnh xuất huyết
Tác nhân gây bênh: cầu khuẩn Streptococcus iniae, gram dương.
• Dấu hiệu bệnh lý: Ðầu tiên cá yếu bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, cơ quan nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng; thận, gan, lá lách dịch hóa (mềm nhũn). Cá bệnh nặng bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi ra, bụng trương to
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn gặp ở nhiều loài cá nước ngọt, cá rô phi khi nuôi năng suất cao hệ tuần hoàn khép kín, dễ phát bệnh. Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh an toàn.
Phòng trị bệnh
Cải thiện môi trường nuôi ổn định, bón vôi (CaCO3 hoặc CaMg(CO3)2) tùy theo pH của môi trường, liều lượng 1-2kg/100m3, mỗi tháng bón từ 2-4 lần.
• Dùng Erythromycine: trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, dùng 2-5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2 ppm sau đó qua ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4 g/100kg cá, từ ngày thứ 3-5 giảm bớt 1/2. Thuốc KN-04-12 cho ăn 4g/1kg cá/ngày và cho ăn 3-6 ngày liên tục. Vitamin C phòng bệnh xuất huyết, liều dùng thường xuyên cho cá 20-30mg/ 1kg cá /1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.
â Bệnh viêm ruột
Hình 11. Bệnh viêm ruột cá Rô Phi
Tác nhân gây bệnh: vi khuẩn: Aeromonas hydrophila, gram âm
• Dấu hiệu bệnh lý: Tương tự như bệnh xuất huyết do cầu khuẩn Steptococcus iniae. Bệnh tích điển hình ruột trương to, chứa đầy hơi nên gọi là bệnh viêm ruột
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh viêm ruột thường gặp ở cá rô phi nuôi thương phẩm và cá bố mẹ nuôi sinh sản khi môi trường nuôi bị ô nhiễm đặc biệt là thức ăn không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp.
Phòng trị bệnh
Cải thiện môi trường nuôi tốt, không để cá nuôi bị sốc do các yếu tố môi trường như bệnh xuất huyết.
Dùng một số kháng sinh cho cá ăn để phòng trị bệnh như Erythromycine hoặc Oxytetramycine, liều dùng 10 - 12 g/ 100 kg cá/ngày đầu, từ ngày thứ 2-7 liều bằng 1/2 ngày đầu; thuốc KN-04-12.
â Bệnh ký sinh trùng
¡ Bệnh trùng bánh xe
Hình 12. Trùng bánh xe
Tác nhân gây bệnh: một số loài trong họ trùng bánh xe Trichodinidae thường gây bệnh ở cá ro phi như: Trichodina centrostrigata, T. domerguei domerguei, T. heterodentata, T. nigra, T. orientalis, Trichodinella epizootica, Tripartiella bulbosa, T. clavodonta (hình 17).
Dấu hiệu bệnh lý: Khi mới mắc bệnh, trên thân, vây cá có nhiều nhớt màu hơi trắng đục, ở dưới nước thấy rõ hơn so với khi bắt cá lên cạn. Da cá chuyển màu xám, cá cảm thấy ngứa ngáy, thường nổi từng đàn lên mặt nước. Một số con tách đàn bơi quanh bờ ao. Khi bệnh nặng trùng bám dày đặc ở vây (hình 18), mang, phá huỷ các tơ mang khiến cá bị ngạt thở, những con bệnh nặng mang đầy nhớt và bạc trắng. Cá bơi lội lung tung không định hướng. Sau hết cá lật bụng mấy vòng, chìm xuống đáy ao và chết.
Phân bố và lan truyền bệnh: Trùng bánh xe gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn cá giống của các loài cá nuôi, đây là bệnh ký sinh đơn bào nguy hiểm nhất của giai đoạn cá giống. Trùng bánh xe ít gây bệnh ở giai đoạn cá thịt. Cá rô phi khi ương ở trong nhà bệnh trùng xe đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ sống, tỷ lệ chết cao từ 70-100%. Bệnh thường phát vào mùa xuân, mùa thu, khi nhiệt độ nước 25-300C. Bệnh thường gặp nhất trên cá rô phi giống lưư qua đông
Phòng trị bệnh: Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút, dùng CuSO4 nồng độ 3-5 ppm (3-5g/m3 nước) tắm cho cá 5-15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ
0,5-0,7 ppm (0,5-0,7g/1 m3 nước).
â Bệnh trùng quả dưa
Tác nhân gây bệnh: trùng quả dưa Ichthyophthyrius multifiliis (hình 19)
Dấu hiệu bệnh lý: Da, mang, vây của cá bị nhiễm bệnh có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ, màu hơi trắng đục (đốm trắng), có thể thấy rõ bằng mắt thường (ngư dân nuôi cá còn gọi là bệnh vẩy nhót. Da, mang cá có nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt.
Cá bệnh nổi đầu trên tầng mặt, bơi lờ đờ yếu ớt. Lúc đầu cá tập trung gần bờ, nơi có cỏ rác, quẫy nhiều do ngứa ngáy. Trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu mô mang làm cá ngạt thở. Khi cá yếu quá chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cắm xuống nước.
Phân bố và lan truyền bệnh: Bệnh trùng quả dưa ở nhiều loài cá trắm cỏ, chép, mè trắng, mè hoa, trôi, rô phi (Hà Ký,1968), cá thát lát (Nguyễn Thị Muội,1985), cá tra nuôi, trê vàng, trê phi, duồng, leo (Bùi Quang Tề,1990). Ngoài ra, một số cá cảnh cũng thường mắc bệnh này. Cá rô phi lưu qua đông ở miền Bắc hoặc nuôi trong nhà, thường gặp trùng qủa dưa gây bệnh làm cá chết hàng loạt. Bệnh trùng quả dưa phát vào mùa xuân, mùa đông.
Phòng trị bệnh: Dùng Formalin tắm với nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) mỗi tuần phun 2 lần.
2.3 Bệnh sán lá đơn chủ
Tác nhân gây bệnh: Sán lá đơn chủ Cichlidogyrus tilapiae, C. sclerosus, Gyrodactylus niloticus .
Phân bố và lan truyền bệnh: Sán lá đơn chủ ký sinh ở cá rô phi nuôi ở Việt Nam gặp có 3 loài, chúng có thể gây thành bệnh khi nuôi mật độ dày ở giai đoạn ương cá giống và có thể gây chết hàng loạt cá ương trong các giai hoặc các bể. Bệnh phát vào mùa xuân, mùa thu, mùa đông.
Phòng trị bệnh:
- Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút
- Dùng KMnO4 nồng độ 20 ppm (20g/m3) tắm cho cá trong thời gian 15 -30 phút
- Dùng Formalin tắm với nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) . â Bệnh rận cá
Tác nhân gây bệnh: rận cá Caligus sp.
Dấu hiệu bệnh lý: Cichlidogyrus, Gyrodactylus ký sinh trên da và mang của cá. Lúc ký sinh chúng dùng móc của đĩa bám sau bám vào tổ chức tuyến đầu tiết ra men hialuronidaza phá hoại tế bào tổ chức mang và da cá làm cho mang và da cá tiết ra nhiều dịch nhờn ảnh hưởng đến hô hấp cá. Tổ chức da và mang bị Cichlidogyru, Gyrodactylus ký sinh viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm và một số sinh vật xâm nhập gây bệnh.
Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá Caligus thường ký sinh ở vây, mang cá rô phi. Caligus dùng cơ quan miệng, các gai xếp ngược ở mặt bụng cào rách tổ chức da cá làm cho da cá bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng khác xâm nhập, vì vậy nên nó thường cùng lưu hành với bệnh đốm trắng, bệnh đốm đỏ, lở loét nên dẫn đến làm cá chết hàng loạt. Mặt khác, Caligus còn dùng tuyến độc qua ống miệng tiết chất độc phá hoại vật nuôi. Cá bị Caligus ký sinh có cảm giác ngứa ngáy, vận động mạnh trên mặt nước, bơi lội cuồng dại, cường độ bắt mồi giảm
Phân bố và lan truyền bệnh:Rận cá Caligusphân bố ởvùng nước ngọt vàcửa sông (nước lợ) chúng ký sinh nhiều loài cánuôi, cá rô phi nuôi mậtđộdày, rận cá ký sinh vàđã gây chết cá hàng loạt nhưởcácđầmnước lợhoặc nước ngọtởHảiPhòng, Ninh Bình, Quảng Ninh, Bến Tre,
Phòng trị bệnh:
-Dùng KMnO4nồngđộ3-5 ppm (3-5g/m3)phun xuống ao hoặc Chlorine phun xuống ao nồngđộ1ppm (1g/m3)
-Dùng Formalin phun xuống ao nồngđộ20-25 ppm(20-25 ml/m3).
â Bệnh nấm thuỷ mi
Khi bị lạnh cá rô phi thường chúi xuống bùn để trú ẩn và thường bị nấm thuỷ miSaprolegniatấn công. Cá vừa bị rét, lại bị nấm thuỷ mi tấn công nên rất dễ bị chế trong mùa đông.
Ngoài ra còn gặp một số bênh trên cá rô phi khác như thiếu dinh dưỡng (Zn) làm cá bị đục mắt, thếu Can xi làm bộ xương yếu ... Tuy nhiênnhững bệnh này không lây lan mạnh và không ở mức độ nghiêm trọng
:
VII. THU HOẠCH
Truớc khi thu hoạch cá dừng cho ăn 1-2 ngày để cá dễ vận chuyển sống tới nhà máy hoặc tiêu thụ tươi sống…
• Sau khi cá nuôi được 5-6 tháng, trọng lượng cá đạt trung bình trên 500g/ con có thể thu hoạch. Đánh bắt những cá thể đạt trọng lượng thương phẩm (> 500g/ con ) những cá thể nhỏ nếu có điều kiện thì có thể nuôi tiếp 1tháng nữa sẽ đạt trọng lượng thương phẩm vì khi nuôi ở mật độ thưa cá lớn rất nhanh.
Hình 13. Thu hoạch cá
9.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
9.1 Đề xuất:
Giải pháp về giống
Mua cá giống tại các địa chỉ tinh cậy không mua cá bán rong chưa rõ địa chỉ, không rõ nguồn gốc, không nghe khuyến cáo nuôi thử của người khác.
Ương từ cá 21 ngày tuổi lên cá giống chi phí giống giảm 30%.
Ao đã nuôi cá Rô phi cần tẩy kỹ tránh còn trứng cá sót lại, nước lọc vào ao phải lọc kỹ qua lưới tránh trứng và tránh trứng cá rô bột ngoài tự nhiên vào ao
Nuôi đúng mật độ theo qui trình kỹ thuật
Đầu mùa khi nhiệt độ còn thấp phải làm sạch môi trường trước khi thả cá, khi đóng cá vào bao cho them một viên thuốc phòng lao để sát trùng
Mùa hè thả cá tránh nhiệt độ trong bao và ngoài ao chêch lệch quá cao
Tắm cho cá trước khi thả với nồng độ 2-3% trong thời gian 5-10 phút
Giải pháp về thức ăn:
Tận dụng nguồn thức ăn phân bón sẵn có của từng gia đình.
Nuôi ghép để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên.
Cho cá Rô Phi ăn thêm thức ăn xanh như bèo tấm, bèo hoa dâu..
Tự chế biến thức ăn nhằm giảm giá thành có thể áp dụng công thức chế biến thức ăn như sau:
Bột cá nhạt 45%, bột ngô 31%, bã bia 19%, tinh bột 5%
Bột cá nhạt 33%, cám gạo 77%
Cám gao 70%, ốc băm nhỏ 30%
Giải pháp về môi trường :
Nuôi đúng mật độ
Cho cá ăn hằng ngày đảm bảo đủ chất và lượng
Định kì thai nước ao, thai nước ao khi nước quá đậm và mùi nước tanh, ao có nhiều bọt vào buổi sáng, cá nổi đầu
9.2 Kết luận:
Muốn nuôi cá rô phi đạt kết quả người nuôi phải tuân thủ theo đúng các quy trình kỹ thuật từ khâu chuẩn bị ao, thả giống, cho ăn và chăm sóc . Hàng ngày phải thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của cá rô phi, mầu nước ao. Hàng tháng phải bắt cá kiểm tra trọng lượng để điều chỉnh lượng thức ăn theo trọng lượng, sau khi cho ăn khoảng 2 giờ phải kiểm tra tình trạng sử dụng thức ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Ngoài ra nuôi thâm canh thường các chất cặn bã, chất thải càng nhiều do đó chúng ta phải chú ý loại bỏ các chất này.
KHOA NÔNG NGHỆP
&
GVHD: ThS.NGUYỄN THỊ MỸ VÂN NHÓM SV THỰC HIỆN:
NGUYỄN VĂN TẠC
PHẠM DUY
TRẦN HỮU THỌ
NGUYỄN THỊ HẰNG
LƯU THẾ NGUYỄN
DƯƠNG VĨNH BẢO
NGUYỄN HOÀNG NHÂN
Cần Thơ 22/10/2009
Phụ lục:
1-MỞ ĐẦU
2-GIỚI THIỆU VỀ CÁ RÔ PHI
3-CHỌN VỊ TRÍ NUÔI
4-THIẾT KẾ XÂY DỤNG AO NUÔI
5-CON GIỐNG
6-THỨC ĂN
7-QUẢN LÝ CHĂM SÓC
8-THU HOẠCH
9-KẾT LUẬN
1. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, cá rô phi được thị trường thế giới đặc biệt ưa chuộng. Điều này đã thúc đẩy mô hình nuôi cá rô phi xuất khẩu phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia nhất là Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia, Philippines, Mexico, Brazil… Nhiều chuyên gia trong ngành nhận định nhu cầu sử dụng sản phẩm chế biến từ cá rô phi ở thị trường nước ngoài sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Đây là dấu hiệu tốt cho sự phát triển mô hình nuôi cá rô phi xuất khẩu ở nước ta.
Cá rô phi có thịt trắng và thơm ngon, dễ chế biến, có thể thay một số loại cá biển nên được đa số người tiêu dùng ưa chuộng. Nhu cầu nhập khẩu cá rô phi của một số quốc gia trong những năm gần đây tăng nhanh. Trong đó nước có số lượng nhập khẩu lớn nhất là Mỹ, sau đó là Nhật Bản ( chủ yếu nhập cá rô phi đỏ). Các nước châu Âu như: Anh, Đức, Pháp, Bỉ… và Ả Rập. Ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bộ thủy sản đã có chủ trương khuyến khích phát triển nghề nuôi cá rô phi ở các vùng, miền trong cả nước. Đặc biệt chú trọng mở rộng qui mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Cá rô phi xuất khẩu đòi hỏi phải có kích cỡ lớn. Do đó nên chọn giống cá đơn tính đực. Hiện nay cá rô phi Gift: Genetically Improved Favmed Tilapia được xem là dòng cá có chất lượng cao và được nhiều người nuôi chọn nuôi xuất khẩu. Đây là dòng cá đơn tính đực đã được cải thiện di truyền.
2. GIỚI THIỆU VỀ CÁ RÔ PHI.
2.1. Đặc điểm sinh học cá Rô Phi 2.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố
Cá rô phi có nguồn gốc từ Châu Phi thuộc họ Cichlidae, bộ cá vược Perciformes. Cho đến năm 1964, người ta mới biết khoảng 30 loài cá rô phi, hiện nay con số đó khoảng 100 loài, trong đó khoảng 10 loài có giá trị kinh tế. Những loài được nuôi phổ biến là cá rô phi vằn, rô phi xanh, rô phi đỏ và rô phi đen trong đó loài nuôi phổ biên nhất là cá rô phi vằn. Ngày nay cá rô phi không những được nuôi ở châu Phi mà đã được phát tán và nuôi ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong vài chục năm trở lại đây, chúng mới thừc sự trở thành loài cá nuôi công nghiệp, sản lượng lớn và giá trị kinh tế cao. Cá rô phi vằn có tên khoa học là Oreochromis niloticus, là loài cá có thịt ngon, giá trị thương phẩm cao, nhanh lớn và dễ nuôi ở các mô hình nuôi khác nhau. Kết quả nghiên cứu những năm gần đây cho thấy nuôi đơn cá rô phi hay nuôi ghép với các loài cá khác, cá sinh trưởng nhanh và rất ít khi bị bệnh. Cá rô phi có khả năng chống chịu tốt với các môi trường sống khác nhau và cho hiệu quả kinh tế cao.
Dựa vào đặc điểm sinh sản người ta chia cá rô phi thành 3 giống:
.Tilapia( cá đẻ cần giá thể)
Sarotherodon ( cá bố hay cá mẹ ấp trứng trong miệng)
Cá rô phi Oreochromis ( cá mẹ ấp trứng trong miệng) Cá rô phi hiện nay đang nuôi phổ biến ở Việt Nam thuộc: Bộ cá Vươc Perci Forms.
Họ: Cichlidae Giống: Oreochromis
Loài cá rô phi vằn Oniloticus Hiện nay có 3 loài chính được phổ biến tại Việt Nam: cá rô phi cỏ Oreochromis Mossambicus. Được nhập vào Việt Nam năm 1953 qua ngã Thái Lan. Cá rô phi vằn ( cá rô phi Đài Loan O. nilolicus) được nhập vào Việt Nam năm 1974 từ Đài Loan. Cá rô phi đỏ (red Tilapia ) có màu hồng được nhập vào Việt Nam năm 1985 từ Malaixia.
2.1.2. Đặc điểm về hình thái:
Cá rô phi có thân hình màu hơi tím, vảy sáng bóng có 9-12 sọc đậm song song nhau từ lưng xuống bụng. Vi đuôi có màu sọc đen sậm song song từ phía trên xuống dưới và phân bố khắp vi đuôi. Vi lưng có những sọc trắng chạy song song trên nền xám đen. Viền vi lưng và vi đuôi có màu hồng nhạt.
*.Ðặc điểm hình thái một số giống cá rô phi nuôi phổ biếnLoài cá rô phi vằn Oreochromis niloticus: Toàn thân phủ vảy, ở phần lưng có màu xám nhạt, phần bụng có màu trắng ngà hoặc xanh nhạt. Trên thân có từ 7-9 vạch chạy từ phía lưng xuống bụng. Các vạch đậm dọc theo vây đuôi ở từ phía lưng xuống bụng rất rõ (hình 1A). Cá rô phi vằn là loài có kích cỡ thương phẩm lớn, lớn nhanh và đẻ thưa hơn cá rô phi đen. Ðây là loài được nuôi phổ biên nhất trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay. Loài cá rô phi đen Oreochromis mossambicus: Toàn thân phủ vảy, vảy ở lưng có màu xám tro đạm hoặc xanh đến hơi nhạt. Phần bụng có màu trắng xám hoặc xám ngà. Trên thân và vây đuôi không có các sọc chạy từ phía lưng xuống bụng như ở cá rô phi vằn. Cá rô phi đen (còn cọi là cá rô phi cỏ, rô phi sẻ) là loài lớn chậm, kích cỡ thương phẩm nhỏ, đẻ mau nên không được ưa chuộng. Ngoài ra còn một số giống cá rô phi khác như cá rô phi đỏ (cá diêu hồng)
cũng được nuôi khá phổ biến hiện nay, đặc biệt là ở ÐBSCL.
C
A) Rô phi vằn B) Rô phi đen C)cá điêu hồng
Hình 1:Hình thái ngoài của cá rô phi vằn và cá rô phi đen Thức ăn
2.1.3. Đặc điểm môi trường:
các loài cá rô phi hiện đang nuôi có đặc điểm sinh thái gần giống nhau.
· Nhiệt độ: rất cần thiết cho sự phát triển của cá rô phi từ 22-350 C. Thích hợp nhất 25-320 C. Khả năng chịu đựng với biến đổi cũng rất cao từ 8-420 C. Cá chết rét ở 5.50 C và bắt đầu chết nóng ở 420 C.Nhiêt độ càng thấp thì cá càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi ro nhiễm bệnh.
· Độ mặn: cá rô phi là loài rộng muối , chúng có thể sống được trong môi trường nước sông, suối , đập tràn , hồ ao nước ngọt, nước lợ và nước mặn có độ muối từ 0-40%0 . Trong môi trường nước lợ (độ mặn10-25%0) cá tăng trưởng nhanh, mình dày thịt thơm ngon.
· Độ pH: môi trường có độ pH 6.5-8.5 thích hợp cho cá rô phi, nhưng cá có thể chịu đựng trong môi trường có độ pH 4-9
· Oxy hòa tan: Cá rô phi có thể sống được trong ao, đìa có màu nước đậm. mật độ tảo dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ gây hiện tượng thiếu oxy cao. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước của cá rô phi trên 1mg/l, ngưỡng gây chết 0,3mg/l.
2.1.4. Dinh dưỡng:
- Cơ quan tiêu hóa: hàm trên và hàm dưới có nhiều răng ngắn, nhỏ xếp thành hàng. Răng hầu gồm 2 tấm trên và một tấm dưới có tác dụng nghiền nát thức ăn. Lược mang ngắn dạ dày túi nhỏ. Ruột dài gấp nhiều lần so với thân cá.
Tính ăn:cá có tính ăn tạp. Khi còn nhỏ cá rô phi ăn sinh vật phù du ( tảo và động vật nhỏ) là chủ yếu ( cá 20 ngày tuổi kích thước khoảng 18mm). Khi trưởng thành cá ăn mùn bã hữu cơ lẫn tảo lắng ở đáy ao, ăn ấu trùng, thực vật thủy sinh. Tuy nhiên trong nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc, bột cá khô, bột bắp. bột khoai, bột lúa, cám mịn, bã đậu nành, bã đậu phộng. Trong thiên nhiên cá thường ăn từ tầng đáy có mức sâu từ 1-2m.
Hình2: Thức ăn tự nhiên của cá rô phi: ÐVPD, TVPD và động vật đáy
2.1.5. Sinh trưởng:
Tốc độ lớn của cá rô phi phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, thức ăn, mật độ thả và kỹ thuật chăm sóc. Khi nuôi thâm canh cá lớn nhanh hơn khi nuôi bán thâm canh hay là nuôi ghép.Cá Rô Phi vằn và Rô Phi Đỏ lớn nhanh hơn cá Rô Phi Trắng. Sau 1 tháng tuổi cá con đạt trọng luọng 2-3g/con, sau 2 tháng tuổi đạt 10-12g/con. Sau 5-6 tháng nuôi cá Rô Phi Vằn đực có thể đạt 200-250g, cá cái 150-200g. Thời kỳ sinh trưởng nhanh ở 3-4 tháng đầu, trong cung điều kiện nuôi cá đực lớn nhanh hơn cá cái. Sau 1 năm nuôi cá đạt từ 200-500g/con.
2.1.6. Đặc điểm Sinh sản:- Thành thục sinh dụcTrong điều kiện ao nuôi cá rô phi thành thục sinh dục vào tháng thứ 3, 4 khi cá có trọng lượng thông thường là100-150g/con (cá cái). Tuy vậy kích thước thành thục sinh dục của cá rô phi phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc, điều kiện nhiệt độ và độ tuổi. Cá nuôi trong mô hình thâm canh năng suất cao cá cái tham gia sinh sản lần đầu sinh sản khi trọng lượng đạt trên 200g trong khi đó ở điều kiện nuôi kém, cá cái bắt đầu đẻ khi trọng lượng cơ thể mới khoảng 100g.
- Cá Rô Phi hầu như sinh sản quanh năm, có thể đẻ từ 6-11 lần trong năm ở nhiệt độ 23-250C, khoảng cách giữa 2 lần đẻ 30 ngày
- Khi sinh sản cá đực làm tổ ở đáy ao, có hình lồng chảo đường kính khoảng 30cm. Trứng nở sau 4-5 ngày. Cá cái ngậm trứng ấp trong miệng và cá con mới nở đến khi hết noăn hoàng (9-10 ngày) thời gian này cá cái không bắt mồi nên cá gầy,, không lớn. Sau đó cá con sống độc lập
Trung bình cá cái có trọng lượng 200-250g đẻ được 1000-2000 trứng.
3. CHỌN VỊ TRÍ NUÔI.
Hình3:Bản Đồ Vị Trí Ao Nuôi
Với diện tích 1000m2. mảnh đất thuộc địa phận Tứ Giác Long Xuyên. Thuộc Xã Phú Thuận, Huyện Thoại Sơn, Tỉnh An Giang.
Vùng đất bị nhiểm phèn sắt, Ph≤6,5, được tôn tạo từ đất ruộng, không bị nhiễm mặn, không bị nhiễm bẫn, không nhiễm độc, giữ nước tốt, không rò rỉ .
Có điều kiện tự nhiên thuận lợi như:
+ Giao thông thuận lợi: trước mặt là Quốc Lộ 80 thuận lợi cho việc đi lại.
+ Trước mặt có con Sông Cái: tạo điều kiện cấp tiêu nước dể dàng.
+ Nằm xa khu công nghiệp và các nguồn nước bẩn.
Là nơi có điều kiện lí tưởng để nuôi cá
III. THIẾT KẾ XÂY DỤNG AO.
1. Yêu cầ xây dựng
a. Yêu cầu về sinh vật : Ao phải thiết kế thích hộp với sự sinh trưởng và phát triển của đói tựơng nuôi. Mỗi loài nuội đòi hỏi môi trường nuôi khác nhau,ta khó có thể tạo ra một môi trường nuôi thỏa mản các điều kiện trên. Tuy nhiên trong thiết kể ta thừng chú ý đến các yếu tố sau: độ sâu, diên tích, độ trong, ánh sáng, chất nước:Ph, O2,CO2, độ mặn, hàm lượng chất hửu cơ, sinh cảnh: chất đáy, thực vật thủy sinh.
b. Yêu cầu về kĩ thuật quản lý: Ao phải xây dựng sao cho quá trình sản xuất dể dàng. Thuận tiện cấp tiêu nước nhanh chóng, thu hoạch triệt để, vận chuyển dể dàng.
Yêu cầu về kĩ thuật cong trình: xây dựng ao phải ổn dịnh và giá thành thấp. ao phải giữ được nước, được cá, không rò rỉ, sạt lở
Các thông số kỹ thuật:
• Ao nuôi có chiều dài 50m, rộng 20m.
• Hệ số mái 1.5
• Độ sâu cột nước 1.5m
• Độ cao bờ ao cao hơn mực nước hàng năm 0.5m
Hình 4. Mặt cắt bờ ao
Hình5. mặt bằng ao nuôi
4. Con giống
Chọn con giống có kích cỡ đồng điều, cỡ cá thả là từ 3-4cm
Cá khỏe mạnh không dị tật, dị hình, vi, vây, vẩy đầy đủ
Màu sắc sáng, các sọc trên thân rõ ràng
Lựa chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, uy tính, chất lượn(nguồn con giống ở địa phương để dể vận chuyển, cá ít bị sốc, giảm chi phí)
Mật độ cá thả: từ 30-40 con/m2
Vận chuyển cá: nếu vận chuyển nơi gần có thể dùng thau, chậu… nếu vận chuyển xa thì dùng túi nilong có bơm oxy.
Cách thả cá: : Thời điểm thả cá giống tốt nhất là lúc sáng sớm hoặc chiều mát trời.
Nếu vận chuyển bằng thau, chậu thì nghiêng thau, chậu cho nước trong ao vào từ từ cho cá thích nghi và để cho cá tự bơi ra ngoài.
Nếu vận chuyển bằng túi nilong thì ngâm túi trong ao từ 15-20 phút,sau đó mở miệng túi cho cá tự bơi ra.Trước khi thả cá có thể tắm cá bằng NaCl với nồng độ 2-3% thời gian từ 5-10 phút hoặc có thể sát trùng cá giống bằng kháng sinh (Aureomycin hoặc Oxytetracylin) nồng độ 10-15 ppm trong 5-10 phút hoặc Dùng Xanh Malachit nồng độ từ 1-4 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút hoặc dùng Formaline nồng độ 200-300 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút.
Hình 6. Vèo cá giống
5. Cho ăn
- Cho ăn toàn thức ăn công nghiệp dạng viên nén được chế biến riêng cho cá Rô Phi. Nên chọn loại nổi trên mặt nước trong thời gian dài để cá ăn triệt để. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều tối. Nên cho cá ăn vào giờ cố định.
Hình7. cách cho ăn
- Để cá phát triển tốt thì thức ăn cung cấp hằng ngày cho cá phải đảm bảo đủ lượng và chất, đặc biệt là hàm lượng đạm. Lượng thức ăn và hàm lượng đạm được tính theo trọng lượng của cá. Cá càng lớn thì lượng thức ăn và hàm lượng đạm càng giảm. Ta có công thức cho ăn trong bảng sau
Trọng lương trung bình g/con
Kích cỡ viên thức ăn nổi (mm)
Hàm lượng đạm trong thức ăn (%)
Khẩu phần ăn hàng ngày (% tổng trọng lượng cá trong ao)
5-10
Mảnh
30
10
10-100
1,5-2
28
5
100-150
2-2,5
26
3
150-300
2-2,5
22
2,5
>300
3
18
1,5-2
- Vì lượng thức ăn hàng ngày được tính theo trọng lượng của cá, nên định kỳ (1 tuần 1 lần) kiểm tra sự tăng trưởng của chúng bằng cách bắt cân ngẫu nhiên khoảng 30 con rồi tính trọng lượng trung bình. Sau đó ước lượng tổng trọng lượng của cá trong ao đẻ làm cơ sở xác định lượng thức ăn hàng ngày.
- Sử dụng thức ăn FIN.
- Thức ăn dạng viên nổi.
Trọng lượng tịnh : 25 kg
Số CBCL : GF-LA 114/06
Công ty: GREEN FEED VIETNAM CO., LTD - CÔNG TY 100% VỐN TỪ THÁI LAN
Nhà máy: XÃ NHỰT CHÁNH – HUYỆN BẾN LỨC – TỈNH LONG AN – VIỆT NAM
ĐT: (072) 632 881 – 633 373
FAX: (072) 632 877 – 633 374
Hình 8.FIN 25 6146 - Thức ăn cao cấp cho cá rô phi (Dùng cho cá từ 200g-500g).
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG
· Đạm tối thiểu: 25%
· Xơ tối đa: 7%
· Béo tối thiểu: 4%
· Ẩm tối đa: 11%
· Tro tối đa: 16%
· Muối: 2,5%
· Độ tan tối thiểu: 2 giờ
· Năng lượng trao đổi tối thiểu: 2.750 kcal/kg
THÀNH PHẦN CHÍNH
Bột cá, tấm gạo, cám gạo, cám mì, khô dầu đậu nành, acid amin, các chất bổ sung khoáng và vitamin
HƯỚNG DẨN SỬ DỤNG VÀ BẢO QUẢN
Loại cá
Mã số
Tên TM
Cỡ viên (mm)
Đạm (%)
(%) Cho ăn
<5
6106
Mini 40
A
0,7 – 1
40
7 - 35
5 - 10
6116
Mini 35
B
1 - 1,5
35
7 - 25
10 - 20
6126
Mini 30
C
1 - 2
30
5 - 7
20-200
6136
Fin27
D
2 - 4
27
3,5 - 6
200-500
6146
Fin25
E
3 - 4
25
2,5 - 4
>500
6156
Fin20
F
4 - 6
20
1,5 - 3
- Định kỳ (khoảng 2 tuần 1 lần) bổ sung VitaminC vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá. Hàm lượng Vitamin chiếm 1-2% trên tổng lượng thức ăn hàng ngày.
Hình 9. Vitamin C Antistress
Cách sử dụng:
- Liều lượng 1kg/200-300kg cá
- Trộn với thức ăn cho cá ăn
- Hàng tuần cần bón thêm phân đạm và lân cho ao để bổ sung thêm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Liều lượng sử dụng: 1kg đạm + 2kg lân cho 100m2 ao. Lưu ý khi cá đạt trọng lượng trên 100g/con thì không cần bón thêm phân. Cách bón phân hòa tan phân trong nước (nên hòa riêng từng loại) sau đó tạt đều khắp ao. Nên tạt vào thời thời giữa buổi sáng lúc nắng tốt.
- Để kích thích tính thèm ăn của cá, cứ khoảng 15 ngày thì ngưng cho ăn 1 ngày sau đó cho ăn lại. Trong ngày ngưng cho ăn, cá vẫn không bị đói vì chúng còn có nguồn thức ăn tự nhiên trong ao
- Mỗi khi cho ăn, cần theo dõi biểu hiện ăn cúa cá. Nếu thấy thăn còn thừa nhiều trên mặt nước thì lần sau nên giảm bớt lượng thức ăn. Nếu thấy cá ăn hết thức ăn rất nhanh thì nên tăng thêm lượng thức ăn
Hình:vèo ương cá giống
VI. Quản lý chăm sóc:
Quản lý môi trường nước:
Thay nước định kỳ theo con nước thủy triều.
Các chỉ tiêu hóa học, sinh học cần phải đảm bảo cụ thể:
.Nhiệt độ: 25-320c
.Độ pH: 6.5-8.5
. Độ mặn: 0%o
. Độ trong: 10-20 cm
.Hàm lượng oxy hòa tan: 4-9 mg/l
. Hàm lượng co2:10-30 mg/l
. Hàm lượng NH4: nhỏ hơn 1 mg/l
. Hàm lượng P04:0.5 mg/l
. Hàm lượng H2S:<=0.1mg/l
. Hàm lượng Fe ++: nhỏ hơn 0.2 mg/l
Quản lý bờ ao:
Thường xuyên kiểm tra bờ ao cống rãnh để tránh thất thoát cá trong ao.
Gia cố, nâng cấp bờ ao cho chắc chắn
Quản lý thức ăn:
Cho cá ăn đầy dủ lượng và chất, thời gian và cách cho ăn hợp lý
Tùy vào giai đoạn nuôi và trọng lượng cá mà có công thức cho ăn, khẩu phần ăn hợp lý
Quản lý mầm bệnh:
- Để phòng bệnh phát sinh ở cá rô phi nuôi thương phẩm, khi nuôi cá cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp: kết hợp giữa cải tạo vệ sinh môi trường ao nuôi với việc chọn con giống có sức đề kháng và không mang mầm bệnh và quản lý chặt chẽ chế độ ăn và sử dụng thức ăn.
- Cải tạo vệ sinh môi trường ao nuôi. Trước khi nuôi ao cá phải được làm cạn nước, vét bùn (mức bùn còn lại ở đáy ao không quá 10cm). Dùng vôi cải tạo đáy ao tăng dinh dưỡng cho ao và diệt các vật chủ trung gian gây bệnh cho cá. Dùng vôi nung CaO với lượng 10-15 kg/100m2 ao.
Hình 10. cải tạo ao bằng vôi
- Chọn giống cá nuôi đủ tiêu chuẩn chất lượng. Cá rô phi đơn tính đực dòng GIFT, cỡ cá đều, vây vẩy hoàn chỉnh, cá không dị hình và không có dấu hiệu bệnh lý. Cá khỏe mạnh bơi lội nhanh nhẹn.
Trước khi thả xuống ao, cá giống phải được khử trùng cơ thể bằng một trong 4 loại thuốc:
Dùng muối ăn NaCl nồng độ 2-3% tắm cho cá trong khoảng 5-10 phút hoặc có thể sát trùng cá giống bằng kháng sinh (Aureomycin hoặc Oxytetracylin) nồng độ 10-15 ppm trong 5-10 phút hoặc dùng Xanh Malachit nồng độ từ 1-4 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút hoặc dùng Formaline nồng độ 200-300 ptm tắm trong thời gian 30-60 phút.
- Quản lý chặt chẽ chế độ ăn và môi trường trong quá trình nuôi.
- Dùng thức ăn chế biến công nghiệp có hàm lượng đạm từ 18-30% để nuôi cá rô phi thương phẩm.Ngày cho cá ăn ngày 2 lần, cho cá ăn ở nơi cố định để dễ kiểm tra theo dõi khả năng sử dụng thức ăn của cá để điều chỉnh cho phù hợp.
Thường xuyên vệ sinh môi trường ao nuôi bằng cách bón vôi xuống ao theo định kỳ nhằm ổn định pH và khử trùng làm sạch đáy ao. Có thể dùng từ 1-2 kg vôi (CaCO3 hoặc Ca(MgCO3)2) bón cho 100 m2 ao, định kì 15 ngày/lần. Đồng thời dùng thuốc phòng bệnh cho cá nuôi trước mùa phát triển bệnh.
îNhững loại bệnh thông thường trên cá rô phi và biện pháp phòng trị
Trong nuôi thâm canh cá rô phi, quản lý sức khỏe cá và môi trường nuôi. Cá rô phi là những loài cá nuôi ít bị sốc (stress) với biến đổi của môi trường và có khả năng kháng được một số bệnh, nhưng trong quá trình nuôi cũng phát một số bệnh ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thực phẩm. Việt Nam là nước trong khu vực Ðông Nam á, có khí hậu ấm áp và có đủ điều kiện để sản xuất cá rô phi hướng tới xuất khẩu, nhưng khí hậu nhiệt đới cũng là điều kiện cho bệnh tật phát triển. Trong quá trình ương nuôi cá giống đến nuôi cá thương phẩm cá rô phi thường
gặp một số bệnh như sau:
â Bệnh do vi khuẩn
¡ Bệnh xuất huyết
Tác nhân gây bênh: cầu khuẩn Streptococcus iniae, gram dương.
• Dấu hiệu bệnh lý: Ðầu tiên cá yếu bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, cơ quan nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng; thận, gan, lá lách dịch hóa (mềm nhũn). Cá bệnh nặng bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi ra, bụng trương to
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn gặp ở nhiều loài cá nước ngọt, cá rô phi khi nuôi năng suất cao hệ tuần hoàn khép kín, dễ phát bệnh. Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh an toàn.
Phòng trị bệnh
Cải thiện môi trường nuôi ổn định, bón vôi (CaCO3 hoặc CaMg(CO3)2) tùy theo pH của môi trường, liều lượng 1-2kg/100m3, mỗi tháng bón từ 2-4 lần.
• Dùng Erythromycine: trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, dùng 2-5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2 ppm sau đó qua ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4 g/100kg cá, từ ngày thứ 3-5 giảm bớt 1/2. Thuốc KN-04-12 cho ăn 4g/1kg cá/ngày và cho ăn 3-6 ngày liên tục. Vitamin C phòng bệnh xuất huyết, liều dùng thường xuyên cho cá 20-30mg/ 1kg cá /1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.
â Bệnh viêm ruột
Hình 11. Bệnh viêm ruột cá Rô Phi
Tác nhân gây bệnh: vi khuẩn: Aeromonas hydrophila, gram âm
• Dấu hiệu bệnh lý: Tương tự như bệnh xuất huyết do cầu khuẩn Steptococcus iniae. Bệnh tích điển hình ruột trương to, chứa đầy hơi nên gọi là bệnh viêm ruột
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh viêm ruột thường gặp ở cá rô phi nuôi thương phẩm và cá bố mẹ nuôi sinh sản khi môi trường nuôi bị ô nhiễm đặc biệt là thức ăn không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp.
Phòng trị bệnh
Cải thiện môi trường nuôi tốt, không để cá nuôi bị sốc do các yếu tố môi trường như bệnh xuất huyết.
Dùng một số kháng sinh cho cá ăn để phòng trị bệnh như Erythromycine hoặc Oxytetramycine, liều dùng 10 - 12 g/ 100 kg cá/ngày đầu, từ ngày thứ 2-7 liều bằng 1/2 ngày đầu; thuốc KN-04-12.
â Bệnh ký sinh trùng
¡ Bệnh trùng bánh xe
Hình 12. Trùng bánh xe
Tác nhân gây bệnh: một số loài trong họ trùng bánh xe Trichodinidae thường gây bệnh ở cá ro phi như: Trichodina centrostrigata, T. domerguei domerguei, T. heterodentata, T. nigra, T. orientalis, Trichodinella epizootica, Tripartiella bulbosa, T. clavodonta (hình 17).
Dấu hiệu bệnh lý: Khi mới mắc bệnh, trên thân, vây cá có nhiều nhớt màu hơi trắng đục, ở dưới nước thấy rõ hơn so với khi bắt cá lên cạn. Da cá chuyển màu xám, cá cảm thấy ngứa ngáy, thường nổi từng đàn lên mặt nước. Một số con tách đàn bơi quanh bờ ao. Khi bệnh nặng trùng bám dày đặc ở vây (hình 18), mang, phá huỷ các tơ mang khiến cá bị ngạt thở, những con bệnh nặng mang đầy nhớt và bạc trắng. Cá bơi lội lung tung không định hướng. Sau hết cá lật bụng mấy vòng, chìm xuống đáy ao và chết.
Phân bố và lan truyền bệnh: Trùng bánh xe gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn cá giống của các loài cá nuôi, đây là bệnh ký sinh đơn bào nguy hiểm nhất của giai đoạn cá giống. Trùng bánh xe ít gây bệnh ở giai đoạn cá thịt. Cá rô phi khi ương ở trong nhà bệnh trùng xe đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ sống, tỷ lệ chết cao từ 70-100%. Bệnh thường phát vào mùa xuân, mùa thu, khi nhiệt độ nước 25-300C. Bệnh thường gặp nhất trên cá rô phi giống lưư qua đông
Phòng trị bệnh: Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút, dùng CuSO4 nồng độ 3-5 ppm (3-5g/m3 nước) tắm cho cá 5-15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ
0,5-0,7 ppm (0,5-0,7g/1 m3 nước).
â Bệnh trùng quả dưa
Tác nhân gây bệnh: trùng quả dưa Ichthyophthyrius multifiliis (hình 19)
Dấu hiệu bệnh lý: Da, mang, vây của cá bị nhiễm bệnh có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ, màu hơi trắng đục (đốm trắng), có thể thấy rõ bằng mắt thường (ngư dân nuôi cá còn gọi là bệnh vẩy nhót. Da, mang cá có nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt.
Cá bệnh nổi đầu trên tầng mặt, bơi lờ đờ yếu ớt. Lúc đầu cá tập trung gần bờ, nơi có cỏ rác, quẫy nhiều do ngứa ngáy. Trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu mô mang làm cá ngạt thở. Khi cá yếu quá chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cắm xuống nước.
Phân bố và lan truyền bệnh: Bệnh trùng quả dưa ở nhiều loài cá trắm cỏ, chép, mè trắng, mè hoa, trôi, rô phi (Hà Ký,1968), cá thát lát (Nguyễn Thị Muội,1985), cá tra nuôi, trê vàng, trê phi, duồng, leo (Bùi Quang Tề,1990). Ngoài ra, một số cá cảnh cũng thường mắc bệnh này. Cá rô phi lưu qua đông ở miền Bắc hoặc nuôi trong nhà, thường gặp trùng qủa dưa gây bệnh làm cá chết hàng loạt. Bệnh trùng quả dưa phát vào mùa xuân, mùa đông.
Phòng trị bệnh: Dùng Formalin tắm với nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) mỗi tuần phun 2 lần.
2.3 Bệnh sán lá đơn chủ
Tác nhân gây bệnh: Sán lá đơn chủ Cichlidogyrus tilapiae, C. sclerosus, Gyrodactylus niloticus .
Phân bố và lan truyền bệnh: Sán lá đơn chủ ký sinh ở cá rô phi nuôi ở Việt Nam gặp có 3 loài, chúng có thể gây thành bệnh khi nuôi mật độ dày ở giai đoạn ương cá giống và có thể gây chết hàng loạt cá ương trong các giai hoặc các bể. Bệnh phát vào mùa xuân, mùa thu, mùa đông.
Phòng trị bệnh:
- Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút
- Dùng KMnO4 nồng độ 20 ppm (20g/m3) tắm cho cá trong thời gian 15 -30 phút
- Dùng Formalin tắm với nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) . â Bệnh rận cá
Tác nhân gây bệnh: rận cá Caligus sp.
Dấu hiệu bệnh lý: Cichlidogyrus, Gyrodactylus ký sinh trên da và mang của cá. Lúc ký sinh chúng dùng móc của đĩa bám sau bám vào tổ chức tuyến đầu tiết ra men hialuronidaza phá hoại tế bào tổ chức mang và da cá làm cho mang và da cá tiết ra nhiều dịch nhờn ảnh hưởng đến hô hấp cá. Tổ chức da và mang bị Cichlidogyru, Gyrodactylus ký sinh viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm và một số sinh vật xâm nhập gây bệnh.
Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá Caligus thường ký sinh ở vây, mang cá rô phi. Caligus dùng cơ quan miệng, các gai xếp ngược ở mặt bụng cào rách tổ chức da cá làm cho da cá bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng khác xâm nhập, vì vậy nên nó thường cùng lưu hành với bệnh đốm trắng, bệnh đốm đỏ, lở loét nên dẫn đến làm cá chết hàng loạt. Mặt khác, Caligus còn dùng tuyến độc qua ống miệng tiết chất độc phá hoại vật nuôi. Cá bị Caligus ký sinh có cảm giác ngứa ngáy, vận động mạnh trên mặt nước, bơi lội cuồng dại, cường độ bắt mồi giảm
Phân bố và lan truyền bệnh:Rận cá Caligusphân bố ởvùng nước ngọt vàcửa sông (nước lợ) chúng ký sinh nhiều loài cánuôi, cá rô phi nuôi mậtđộdày, rận cá ký sinh vàđã gây chết cá hàng loạt nhưởcácđầmnước lợhoặc nước ngọtởHảiPhòng, Ninh Bình, Quảng Ninh, Bến Tre,
Phòng trị bệnh:
-Dùng KMnO4nồngđộ3-5 ppm (3-5g/m3)phun xuống ao hoặc Chlorine phun xuống ao nồngđộ1ppm (1g/m3)
-Dùng Formalin phun xuống ao nồngđộ20-25 ppm(20-25 ml/m3).
â Bệnh nấm thuỷ mi
Khi bị lạnh cá rô phi thường chúi xuống bùn để trú ẩn và thường bị nấm thuỷ miSaprolegniatấn công. Cá vừa bị rét, lại bị nấm thuỷ mi tấn công nên rất dễ bị chế trong mùa đông.
Ngoài ra còn gặp một số bênh trên cá rô phi khác như thiếu dinh dưỡng (Zn) làm cá bị đục mắt, thếu Can xi làm bộ xương yếu ... Tuy nhiênnhững bệnh này không lây lan mạnh và không ở mức độ nghiêm trọng
:
VII. THU HOẠCH
Truớc khi thu hoạch cá dừng cho ăn 1-2 ngày để cá dễ vận chuyển sống tới nhà máy hoặc tiêu thụ tươi sống…
• Sau khi cá nuôi được 5-6 tháng, trọng lượng cá đạt trung bình trên 500g/ con có thể thu hoạch. Đánh bắt những cá thể đạt trọng lượng thương phẩm (> 500g/ con ) những cá thể nhỏ nếu có điều kiện thì có thể nuôi tiếp 1tháng nữa sẽ đạt trọng lượng thương phẩm vì khi nuôi ở mật độ thưa cá lớn rất nhanh.
Hình 13. Thu hoạch cá
9.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
9.1 Đề xuất:
Giải pháp về giống
Mua cá giống tại các địa chỉ tinh cậy không mua cá bán rong chưa rõ địa chỉ, không rõ nguồn gốc, không nghe khuyến cáo nuôi thử của người khác.
Ương từ cá 21 ngày tuổi lên cá giống chi phí giống giảm 30%.
Ao đã nuôi cá Rô phi cần tẩy kỹ tránh còn trứng cá sót lại, nước lọc vào ao phải lọc kỹ qua lưới tránh trứng và tránh trứng cá rô bột ngoài tự nhiên vào ao
Nuôi đúng mật độ theo qui trình kỹ thuật
Đầu mùa khi nhiệt độ còn thấp phải làm sạch môi trường trước khi thả cá, khi đóng cá vào bao cho them một viên thuốc phòng lao để sát trùng
Mùa hè thả cá tránh nhiệt độ trong bao và ngoài ao chêch lệch quá cao
Tắm cho cá trước khi thả với nồng độ 2-3% trong thời gian 5-10 phút
Giải pháp về thức ăn:
Tận dụng nguồn thức ăn phân bón sẵn có của từng gia đình.
Nuôi ghép để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên.
Cho cá Rô Phi ăn thêm thức ăn xanh như bèo tấm, bèo hoa dâu..
Tự chế biến thức ăn nhằm giảm giá thành có thể áp dụng công thức chế biến thức ăn như sau:
Bột cá nhạt 45%, bột ngô 31%, bã bia 19%, tinh bột 5%
Bột cá nhạt 33%, cám gạo 77%
Cám gao 70%, ốc băm nhỏ 30%
Giải pháp về môi trường :
Nuôi đúng mật độ
Cho cá ăn hằng ngày đảm bảo đủ chất và lượng
Định kì thai nước ao, thai nước ao khi nước quá đậm và mùi nước tanh, ao có nhiều bọt vào buổi sáng, cá nổi đầu
9.2 Kết luận:
Muốn nuôi cá rô phi đạt kết quả người nuôi phải tuân thủ theo đúng các quy trình kỹ thuật từ khâu chuẩn bị ao, thả giống, cho ăn và chăm sóc . Hàng ngày phải thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của cá rô phi, mầu nước ao. Hàng tháng phải bắt cá kiểm tra trọng lượng để điều chỉnh lượng thức ăn theo trọng lượng, sau khi cho ăn khoảng 2 giờ phải kiểm tra tình trạng sử dụng thức ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Ngoài ra nuôi thâm canh thường các chất cặn bã, chất thải càng nhiều do đó chúng ta phải chú ý loại bỏ các chất này.
Thứ Hai, 28 tháng 9, 2009
Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009
Bài báo cáo tôm thẻ chân trăng
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn!
Ban giám hiệu, các phòng, khoa trường cao đẳng Kinh Tế Kỹ Thuật Cần Thơ đã
tạo điều kiện thuận lợi cho em đi thực tập.
Các thầy cô khoa nông nghiệp đặc biệt là cô Nguyễn Thị Mỹ Vân đã tận tình giúp đỡ em về địa điểm thực tập, cô Trần Ngọc Huệ đã hướng dẫn em viết bài báo cáo.
Ban lãnh đạo công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn, đã tạo điều kiện cho em thực tập, nghiên cứu tại công ty
Anh Hoà (phòng nhân sự công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn), chú Ngô Xuân Tùng (trưởng khu I), anh Phạm Hồng Sơn (trưởng lô 9, 10, 11, 12) và các anh công nhân trực tiếp nuôi ao đã tận tình giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho em trong suốt thời gian thực tập tại công ty.
Tập thể lớp CNT07 đã động viên cổ vũ tinh thần trong quá trình thực tập.
Em xin chân thành biết ơn !
Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2009
Phạm Duy
MỞ ĐẦU
Hàng năm dân số thê giới không ngừng gia tăng, nhu cầu thực phẩm cho con người trở nên cấp thiết. Riêng nhu cầu về tôm theo thống kê của FAO (tổ chức lương thực và nông nghiệp lien hiệp quốc), sản lượng tôm trên thế giới trên 2,5 triệu tấn (1993) vừa khai thác tự nhiên vừa nuôi trong ao hồ…nhưng vẫn chưa thoả mãn cho nhu cầu con người. Trong khi đó sản lương khai thác ngoài tự nhiên đã bão hoà khoảng 2 triệu tấn (1993). Vì vậy người ta phải chuyển sang nghề nuôi tôm để đáp ừng được nhu cầu. Hiện nay nghề nuôi tôm đã và đang phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Ắ như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philipin, Việt Nam…Trong đó Việt nam nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu nóng quanh năm, thiên nhiên ưu đã đặc biệt là có đường bờ biển dài từ Bắc tới Nam, hệ thống sông ngòi chằng chịt. Do dó nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển ở cả 3 vùng nước ngọt,lợ,mặn. Đối tượng phát triển nhanh là con tôm sú. Nhưng hiện nay do nhu cầ của thị trường thế giới, rủi ro trong sản xuất nên con tôm thẻ chân trắng đang canh tranh vi thế với con tôm sú, với những ưu điểm nổi trội như: tốc độ lớn nhanh, thích hợp với những biến động nhiệt độ, pH, độ mặn rộng, sức đề kháng cao và ít bị mắc một số bệnh nguy hiểm. Chất lượng thịt cua tôm thơm ngon, chắc, tỉ lệ thịt chiếm trên 60% trọng lượng thịt.
Ở nước ta vài năm gần đây tôm thẻ chân trắng được nuôi rộng rãi ở các tĩnh như: Bạc Liêu, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận…Tuy nhiên, thời gian gần đây khi có chỉ thị của bộ NN và Phát Triển Nông Thôn về phát triển của đối tượng này không ít người nuôi tôm sú đã để ý tới việc nuôi tôm thẻ chân trắng.
Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi mới, những nghiên cứu trong nước về loài tôm này chưa nhiều về giống và quy trình nuôi trong điều kiện môi trường đất, nước. Hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng dựa trên quy trình nuôi tôm sú. Do vậy tiếp tục tìm hiểu kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng trong ao nuôi thâm canh là cần thiết để mang lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo nghề nuôi tôm phát triển ổm định.
Mục tiêu đề tài: hoàn thiện quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm theo mô hình công nghiệp, không dùng kháng sinh và các loại thuốc có hại tới người sử dụng, nhằm mục tiêu xuất khẩu tôm sạch qua nước ngoài.
PHẦN 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1.1. Giới thiệu về đối tượng nghiên cứu:
1.1.1. Nguồn gốc tôm thẻ chân trắng – Penaeus vannamaei:
Tôm thẻ chân trắng - P. vannaeus có nguồn gốc từ châu Mỹ, nuôi phổ biến ở các nước nam Mỹ. Du nhập vào nước ta khoảng năm 2001 (fisternet.gov.vn).
1.1.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng:
1.1.2.1. Trên thế giới:
Có nhiều nước Mỹ La Tinh ở bờ Đông Thái Bình Dương có nghề khai thác tôm chân trắng như Pêru, Êquađo, Êl Sanvađo, Panama, Costa Rica. Do nguồn lợi tôm rất ít và lại biến động nên nghề khai thác tôm không phát triển. Năm 1992 - 1993 có sản lượng kỷ lục là 14 nghìn tấn thì riêng Êquađo chiếm 12 nghìn tấn. Tới năm 1997 sản lượng chỉ còn 4,5 nghìn tấn và năm 1999 lại tăng lên 8 nghìn tấn. Nhìn chung sản lượng khai thác tự nhiên không đáng kể. Nguồn lợi tôm tự nhiên được khai thác chủ yếu là tôm bố mẹ phục vụ cho nghề nuôi tôm nhân tạo rất phát triển ở khu vực. Ngoài ra việc vớt tôm giống tự nhiên phục vụ nuôi nhân tạo cũng có vai trò quan trọng.
1.1.2.2. Sản lượng tôm nuôi nhân tạo:
Tôm chân trắng là đối tượng nuôi nhân tạo quan trọng thứ nhì (sau tôm sú) trên thế giới, còn ở châu Mỹ là số 1. Sản lượng nuôi ở châu Mỹ như sau :
Năm
Sản lượng (1.000T)
1990
86
1992
132
1994
107
1995
140
1997
169
1998
191
1999
140
2000
90 (dự tính)
Năm 1998 sản lượng đạt mức kỷ lục là 191 nghìn tấn chiếm 23% tổng sản lượng tôm nuôi thế giới. Các năm 1999 - 2000 dịch bệnh đốm trắng tàn phá nặng nề tôm nuôi ở châu Mỹ (chủ yếu là tôm chân trắng). Chỉ sau 2 năm sản lượng giảm quá một nửa. Như vậy là sau một thập kỷ sản lượng tôm chân trắng của châu Mỹ lại quay về vị trí ban đầu. Năm 2000 theo thống kê sơ bộ sản lượng tôm chân trắng chỉ còn chiếm 11% sản lượng tôm nuôi thế giới.
1.1.2.3. Các nước nuôi chủ yếu:
Ở châu Mỹ có 12 quốc gia nuôi tôm chân trắng. Vào thời kỳ hưng thịnh (1998) sản lượng của chúng chiếm hơn 90% sản lượng tôm nuôi ở Tây Bán cầu. Sau đây là các nước nuôi cho sản lượng cao.
Êquađo :Từ lâu Êquađo đã là nước nuôi tôm nổi tiếng trên thế giới và luôn luôn ở tốp dẫn đầu cho tới năm 1999.
Mêhicô : Thành công lớn của Êquađo về nuôi tôm chân trắng xuất khẩu không chỉ tạo ra phong trào nuôi rầm rộ ở Mêhicô mà còn ở hàng loạt các nước Mỹ La Tinh (kể cả Mỹ). Mêhicô nhanh chóng trở thành nước nuôi tôm chân trắng lớn thứ nhì châu Mỹ
Panama : Đứng hàng thứ ba về nuôi tôm chân trắng
Các nước khác : Tiếp theo 3 nước dẫn đầu về nuôi tôm chân trắng là Êquađo, Mêhicô và Panama là các nước Mỹ La tinh khác như Belize, Vênêzuêla, Pêru, Colômbia ... Các nước này đều có các kế hoạch đầy tham vọng về phát triển nuôi tôm chân trắng xuất khẩu sang Mỹ. Như đã nêu, dịch bệnh đốm trắng đã lan rộng ra khắp châu Mỹ trong 2 năm 1999 - 2000 đã gây tổn thất lớn cho nhiều nước mới bắt đầu phát triển nuôi tôm. Nếu không sớm tìm được các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và phòng ngừa dịch bệnh thì có thể phong trào nuôi tôm chân trắng ở khu vực vừa mới phát động rất sôi nổi sẽ bị ảnh hưởng lớn.
1.1.2.4. Tôm chân trắng đang được di giống từ Đông sang Tây Thái Bình Dương:
Sau khi được nhiều nước châu Mỹ nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống sang nuôi ở Ha Oai và Hoholulu của Mỹ. Từ đây tôm chân trắng lan sang Đông Á và Đông Nam Á.
Trung Quốc là nước châu Á quan tâm tới tôm chân trắng sớm nhất. Từ năm 1998 họ đã công bố nuôi tôm chân trắng thành công và sẵn sàng chuyển giao công nghệ (cung cấp con giống và kỹ thuật nuôi) cho các nước châu Á nào muốn nhập nội. Năm 2000 vừa qua có thông tin nói rằng Trung Quốc đã xuất khẩu sản phẩm tôm chân trắng, nhưng không rõ nhiều hay ít. Tuy nhiên, ở thị trường nội địa của Trung Quốc thì người tiêu dùng chưa mặn mà với đối tượng mới này.
Nhiều nước châu Á khác như Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Việt Nam ... cũng đã nhập nội tôm chân trắng để nuôi với hy vọng đa dạng hoá các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú như hiện nay. (trích ở fisternet.gov.vn)
1.1.2.2 Ở Việt Nam:
Thứ tư, 30 Tháng một 2008. Bộ NN-PTNT đồng ý cho phép các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ và ĐBSCL nuôi tôm chân trắng theo hình thức thâm canh, nhưng phải đảm bảo các điều kiện theo tiêu chuẩn 28 mà Bộ vừa ban hành. Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận vẫn được nuôi tôm chân trắng theo nhu cầu của nhà đầu tư và nằm trong vùng quy hoạch của địa phương.
Chủ trương này của Bộ NN-PTNT được cụ thể hoá tại Chỉ thị 228 về việc phát triển nuôi tôm chân trắng, do Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng ký ngày 25/1. Theo đó, trại sản xuất tôm giống tại các tỉnh thuộc ĐBSCL phải nằm trong vùng sản xuất giống tập trung đã được Bộ quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, có công suất 500 triệu tôm PL15 trở lên.
Riêng đối với trại giống tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận có thêm yêu cầu là phải nằm trong vùng đã được địa phương quy hoạch, nhưng công suất giảm một nửa so với trại tôm ở ĐBSCL (tối thiểu 250 triệu tôm PL15/năm).
Việc nuôi tôm phải được thực hiện nghiêm theo tiêu chuẩn 28 TCN 191: 2004 vùng nuôi tôm; điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2004/QĐ-BTS, ngày 14/1/2004, của Bộ Thủy sản trước đây. Bộ NN-PTNT yêu cầu UBND các tỉnh chỉ đạo Sở NN-PTNT các tỉnh, các ban ngành địa phương quản lý, hướng dẫn phát triển nuôi tôm chân trắng theo kế hoạch, quy hoạch. Đồng thời, cần kiểm tra và xử lý nghiêm những trường hợp nuôi tôm chân trắng không đúng quy định, sản xuất lưu hành tôm giống không đạt tiêu chuẩn chất lượng để tôm chân trắng thoát ra các vùng nước xung quanh, gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh vùng nuôi. Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng yêu cầu Vụ Nuôi trồng Thuỷ sản sớm xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống, trại sản xuất giống, tiêu chuẩn về tôm bố mẹ, tiêu chuẩn tôm chân trắng thâm canh.
Cục HTX và Phát triển nông thôn phối hợp với Vụ Nuôi trồng Thủy sản chỉ đạo địa phương nghiên cứu tổ chức sản xuất để các DN chế biến xuất khẩu tham gia nuôi tôm chân trắng, xây dựng các mô hình HTX, tổ hợp tác, cộng đồng, khuyến khích đầu tư, tạo mối liên kết 4 nhà (khoa học - sản xuất - đầu tư - doanh nghiệp) để phát triển tôm chân trắng tạo nguồn nguyên liệu an toàn trên cả nước
Tôm chân trắng đang nuôi ở nước ta là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm phát triển tốt, cho năng suất cao, giá thành thấp, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu
Song việc nuôi tôm thẽ chân trắng hiện chỉ hạn chế ở một số tỉnh, thành nhất định. Thời gian qua, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu sản xuất giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được cải thiện.
Tôm chân trắng đã và đang nuôi phát triển theo chiều hướng tốt trên vùng đất thịt, đất cát từ Quảng Ninh đến Bình Thuận. Sản lượng tôm chân trắng chiếm 5-7% sản lượng tôm nuôi trên phạm vi cả nước. Nhiều cơ sở nuôi đạt năng suất cao, từ 12-14 tấn/ha, hiệu quả kinh tế khá, thị trường thế giới có nhu cầu lớn.
Thống kê của Bộ NN-PTNT cho thấy, tại các tỉnh ĐBSCL, việc nuôi tôm sú cũng bị “đe dọa” do phải cạnh tranh gay gắt với tôm chân trắng. Giá thành nuôi 1kg tôm chân trắng nguyên liệu chỉ gần 30.000 đồng, trong khi nuôi 1kg tôm sú tốn 65.000-75.000 đồng, nếu bán ở mức đó thì người nuôi thường bị lỗ. Thị phần mặt hàng tôm sú chế biến giảm mạnh do ảnh hưởng của việc tăng sản lượng xuất khẩu tôm chân trắng từ các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan. Trong khi đó, người tiêu dùng thế giới có xu hướng chuyển qua ăn tôm chân trắng do giá loại tôm này đang rẻ hơn tôm sú Việt Nam từ 30-50%. Giá tôm sú nguyên liệu tại Cà Mau đang ở mức 160.000 đồng/kg loại 20 con; 104.000 đồng/kg loại 30 con. Đây là một thực trạng đáng lo ngại: tôm sú khó cạnh tranh, trong khi đó tôm chân trắng chiếm khoảng gần 70% tổng sản lượng tôm toàn cầu. Do vậy, mặc dù cho phép đa dạng hoá đối tượng nuôi, Bộ NN-PTNT khuyến cáo trong những năm tới tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ lực tại ĐBSCL. Chủ trương của Bộ là cho phép nuôi tôm chân trắng để đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập, tận dụng tiềm năng diện tích đủ điều kiện nuôi. Song, cần tránh tình trạng nuôi ồ ạt không đủ điều kiện dẫn đến rủi ro đáng tiếc xảy ra. (trích ở www.vietbao.vn)
Tôm thẻ chân trắng phát triển ở một số tỉnh như:
- Ninh Thuận: năm 2007 thả nuôi khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch đạt trên 5.000 tấn. Năng suất bình quân nuôi trên cát đạt 12 tấn/ha. Đến cuối năm 2007 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trong toàn tỉnh là 250 ha, năng suất bình quân đạt trên 10 tấn/ha (trích http://vndgkhktnn.vietnamgateway.org)
- Quảng Nam: Ngày 25/5/2009, ông Võ Văn Năm, Phó Giám dốc Sỏ NN&PTNT tỉnh Quảng Nam cho biết, nông dân nuôi tôm thẻ chân trắng tại Quảng Nam đang bội thu. Đây là một tin vui bởi vì theo thống kê vụ này, cả tỉnh có 1.400 ha tôm thẻ chân trắng, năng suất bình quân đạt 10 tấn/ha, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. sáng ngày 25/5, giá bán loại tôm này là 45.000 đồng/kg (thấp hơn cùng kỳ năm ngoái 10.000 đồng/kg). Tuy nhiên, với mức giá này, người nuôi tôm vẫn có lãi 200 triệu đồng/ha.
- Bạc Liêu: Nuôi thử nghiệm thành công tôm thẻ chân trắng Sau thời gian nuôi thử nghiệm hơn 20ha tôm thẻ chân trắng tại thị xã Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) cho thu hoạch với năng suất đạt trung bình từ 8-10 tấn/ha, các chuyên gia đã đưa ra kết luận: Tôm thẻ chân trắng nuôi theo mô hình công nghiệp phù hợp với vùng đất ven biển Bạc Liêu, đặc biệt dọc theo tuyến đê biển thuộc các huyện Hòa Bình, Đông Hải, thị xã Bạc Liêu. Theo tính toán, hiện giá 1 kg tôm thẻ thương phẩm cỡ 80-100 con/kg từ 48.000-50.000 đồng, trong đó chi phí đầu tư nuôi mất từ 35.000 - 40.000 đồng, cho lợi nhuận sau chi phí từ 10.000-15.000 đồng; với năng suất từ 8-10 tấn/ha, sẽ cho thu nhập khoảng trên 100 triệu đồng/ha. Nếu tôm kích cỡ lớn, lợi nhuận sẽ tăng lên cao hơn. Với kết quả thành công bước đầu, tỉnh Bạc Liêu có kế hoạch mở rộng quy hoạch diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng bền vững lâu dài; cho phép mở rộng diện tích nuôi tại Công ty Duyên Hải (thị xã Bạc Liêu), Công ty nuôi trồng thủy sản Vĩnh Hậu (Hòa Bình) và khu vực giữa tuyến đê biển, đê Trường Sơn kéo dài đến giáp ranh xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, người dân trong vùng này đang gặp khó khăn về vốn, kỹ thuật, đặc biệt là nguồn con giống rất hạn chế.
- Kiên Giang: Theo ông Hứa Thanh Hà-Phó phòng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn huyện Kiên Lương (Kiên Giang): Hiện nay, các chủ trang trại trong huyện đang thu hoạch vụ tôm thẻ chân trắng đầu tiên sau 3 tháng nuôi thả, năng suất bình quân đạt từ 10-12 tấn/ha, với giá bán 60.000-65.000 đồng/kg (loại 70-75 con/kg), tính ra mỗi ha lợi nhuận khoảng 250 triệu đồng, cao hơn nhiều so với tôm sú.
Tôm thẻ chân trắng có ưu thế là thời gian nuôi ngắn hơn, tôm phát triển đồng đều, sử dụng nguồn thức ăn cho tôm ít hơn và giá cao hơn tôm sú khoảng 5%. Tuy nhiên, qui trình kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng được thực hiện nghiêm ngặt hơn so với nuôi tôm sú, nhất là khâu xử lý ao nuôi, môi trường nước và nhiều yếu tố khác có liên quan quá trình phát triển của con tôm. Một khó khăn nữa là tôm giống phải nhập về từ các tỉnh miền Trung với giá thành cao tù 50-55 đồng/con. Còn muốn sản xuất tôm giống thì các doanh nghiệp lớn, có công nghệ cao mới có thể sản xuất được và phải nhập giống bố mẹ từ nước ngoài về.
Huyện Kiên Lương hiện có 120 ha tôm thẻ chân trắng được Sở Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang cho phép nuôi theo mô hình công nghiệp và do một số công ty như Trung Sơn, Minh Phú, Pim (Hạ Long) triển khai thực hiện. Đây cũng là địa điểm nuôi tôm thẻ chân trắng đầu tiên thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên (Kiên Giang) trong thời gian gần đây và đạt hiệu quả cao. Sắp tới các công ty nuôi tôm ở đây sẽ đầu tư dây chuyền sản suất tôm giống chân trắng tại chỗ để giảm giá thành sản suất và cung cấp con giống cho bà con ngư dân mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tại khu vực tứ giác Long Xuyên và một số địa bàn khác trong tỉnh.
1.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam:
1.1.3.1. Thuận lợi:
- Thời gian nuôi tôm thẻ chân trắng ngắn khoảng 3-3,5 thang thì thu hoạch, đăc điểm này giúp cho tôm giảm được nhiều rủi ro vì thời gian càng dài thì khả năng bi nhiễm bệch càng nhiều, tồn nhiều chi phí thức ăn, thuốc…
- Năng suất cao hơn tôm sú có thể tới 2-3 lần (12-24 tấn/ha/vụ), chi phí sản suất thấp hơn 20-30% so với tôm sú.
-Nhu cầu tôm thẻ chân trắng trên thế giới rất lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ và Nhật Bản nhu cầu ngày càng tăng.
1.1.3.2. Khó Khăn:
3/3/2009 Việc nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát, và đã có cảnh báo nguy cơ của phong trào này.
Phong trào
Thị trường thế giới giảm tiêu thụ tôm cỡ lớn đắt tiền, tăng lượng tiêu thụ tôm cỡ nhỏ rẻ tiền, mở ra cơ hội cho tôm thẻ chân trắng, với thời gian nuôi ngắn hơn tôm sú, thu lợi nhanh.
Kế hoạch của Bộ NN-PTNT, năm 2009 các tỉnh ĐBSCL nuôi sản lượng khoảng 100.000 tấn tôm thẻ chân trắng, chiếm 26,3 phần trăm tổng sản lượng tôm nuôi nước lợ. Thống kê đến giữa tháng 2/2009 của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), ĐBSCL lên kế hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng 2.148 ha nhưng mới thả nuôi khoảng 75 ha (3,4 phần trăm).
Việc thả nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát và nhiều hộ nuôi ngoài vùng quy hoạch. Tại Trà Vinh, đến nay có trên 50 triệu con tôm thẻ chân trắng được thả nuôi trên diện tích 71 ha mặt nước, trong đó chỉ có khoảng 20 ha được cơ sở giáo dục Bến Giá, xã Long Hữu (Duyên Hải) thả nuôi trong vùng quy hoạch, có hiệu quả khá từ 80 - 100 triệu đồng/ha/vụ. Số còn lại phần lớn là nuôi nhỏ lẻ ngoài vùng quy hoạch, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh nên bị thua lỗ.
Dịch bệnh
Nhược điểm lớn nhất của con tôm thẻ chân trắng là bị nhiều loại dịch bệnh nhất là bệnh taura. Các tỉnh ĐBSCL lại phải nhập con giống từ các tỉnh miền Trung nên khó kiểm soát làm cho kết quả nuôi không ổn định.
Huyện Duyên Hải (Trà Vinh), tại thời điểm hiện nay chỉ có 20/53,2 ha nuôi tôm thẻ chân trắng có hiệu quả. Ông Lâm Minh Thế, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Duyên Hải, cảnh báo: “Các tỉnh miền Trung có ưu thế lựa chọn con giống có chất lượng nên con giống có chất lượng thấp hơn chắc chắn sẽ được đổ về các tỉnh ĐBSCL và tình hình dịch bệnh trên tôm thẻ chân trắng có thể trầm trọng hơn”.
Việc kiểm tra chất lượng con giống nhập vào các tỉnh là cực kỳ khó khăn. Bởi tôm giống được nhập bằng nhiều con đường (đường bộ, đường thủy…), nhất là nhập lậu. Việc quản lý và kiểm dịch con giống của ngành chuyên môn cũng chưa thực hiện được, nguồn giống phần lớn cung cấp qua trung gian của các đơn vị ngoài tỉnh cho người nuôi khi có nhu cầu.
Ông Robin, một chuyên gia Mỹ về lai tạo và cải tiến giống tôm, đang làm việc cho Tập đoàn C.P (tập đoàn cung cấp giống thủy sản, heo, gà; kinh doanh thức ăn, thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản), nói: “Bệnh taura trước đây đe dọa nghiêm trọng tôm thẻ chân trắng thì bây giờ không còn là bệnh đáng ngại nhất vì đã có nhiều loại giống kháng bệnh này. Bệnh đáng ngại nhất là chăm sóc không kỹ lưỡng, quy trình nuôi không bảo đảm”.
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
Thống kê của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), kế hoạch năm 2009, các tỉnh ĐBSCL nuôi 566.069 ha tôm sú. Đến hết tháng 1/2009 mới nuôi 78.822 ha (13,9%). Theo các quy định hiện hành của Bộ NN-PTNT cũng như các địa phương, tôm thẻ chân trắng phải nuôi thâm canh trong vùng qui hoạch để tránh gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh. Thực tế, vùng nuôi tôm thẻ chân trắng rất khó cách ly với vùng nuôi tôm sú.
Ông Phạm Nam Dương - PGĐ Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh nói: “Cần xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm”. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn việc xử phạt đối với những hành vi vi phạm.
Một vấn đề khác là tôm thẻ chân trắng không dễ tiêu thụ, nhất là trong điều kiện nuôi nhỏ lẻ, rải rác hiện nay. Vừa qua, người nuôi chủ yếu bán cho thương lái, số lượng rất hạn chế. Mặt khác, nếu đường vận chuyển không thuận lợi, kéo dài thời gian tôm sẽ bị giảm chất lượng (gãy đầu, xuống màu,…).
Anh Lê Vũ Phương, một hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Long Hữu (Duyên Hải, Trà Vinh), cho biết: “Vụ thẻ nuôi tôm thẻ đầu tiên tôi thả 500.000 con, mật độ 80 con/m2, sau 2,5 tháng thu hoạch, năng suất bình quân 8,6 tấn/ha, giá bán từ 45.000 - 50.000 đồng/kg. Lợi nhuận khá, nhưng khó tiêu thụ”.
Khó khăn nhất hiện nay là người nuôi tôm thẻ chân trắng phải dùng tiền mặt cho các chi phí thức ăn, con giống, thuốc thú y, do cơ sở dịch vụ cung cấp từ ngoài tỉnh không bán chịu như đối với người nuôi tôm sú.
Vốn đầu tư ban đầu lại khá lớn vì mật độ thả nuôi đến 80-100 con/m2, dày gấp 7-10 lần so với tôm sú, mà giá con giống bằng hoặc cao hơn con tôm sú. Người nuôi tôm sú đã gặp khó về vốn, nuôi tôm thẻ chân trắng càng khó hơn.
Hiện con giống tôm thẻ chân trắng được cung cấp chủ yếu từ các Cty CP, AND, Việt-Úc và Trại giống Anh Việt. Việc quản lý chất lượng con giống, đặc biệt là kiểm soát dịch bệnh trên con giống chưa chặt chẽ, nguy cơ tôm thẻ chân trắng gây bệnh lan rộng, phát tán sang con tôm sú là rất lớn. ( trích http://www.vietlinh.vn)
1.2. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng:
1.2.1. Đặc tính phân loại và hình thái và phân bố:
1.2.1.1. Đặc tính phân loại:
Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp ) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei
1.2.1.2. Hình thái, cấu tạo, phân bố
1.2.1.3. Hình thái, cấu tạo:
Cũng như các loài tôm cùng họ Penaeid, tôm chân trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.
Hình 1.2.1.2. Hình thái bên ngoài của tôm hẻ chân trắng.
1.2.1.4. Phân bố:
Tôm thẻ chân trắng phân bố chủ yếu ở vùng nước ven bờ phía Đông Thái BìnhDương từ phía bắc Peru đến phía nam Mehico. Tôm phân bố tập trung ở vùng ven bờ của Ecuador.
Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã di giống ra nhiều vùng biển cả bờ tây lẫn bờ đông của châu Mỹ, ngoài ra tôm còn di giống qua Hawaii và nhiều nước Đông Nam Ắ.
1.2.2. Tập tính sống:
Tôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểmTôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểm:
Đáy cát, có độ sâu khoảng 70m, nhiệt độ nước ổn định từ 25-30oC, độ mặn từ 28-34o/oo, ph 7,7-8,3 (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển, gần bờ, tôm con ưa sống ở khu vực giàu thức ăn.
Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn, tôm lột xác về đêm, khoảng 20 ngày lột xác một lần. Nuôi trong phòng thí nghiệm ít thấy chúng ăn thịt lẫn nhau.
1.2.3. Tính thích ứng với môi trường sống:
Tôm thẻ chân trắng có tính thích nghi mạnh đối với sự thay đổi của môi trường sống. Lên khỏi mặn nước khá lâu mà vẫn không chết. Cỡ tôm từ 1-6cm đang sống ở độ mặn 20%o ở bể ương, khi di chuyển vào các ao nuôi tôm, có thể sống trong phạm vi độ mặn 5-50%o‑, thích hợp nhất là 10-40%o, nếu dưới 5%o hoặc trên 50%o tôm sẽ chết dần, những con tôm cỡ 5cm có sức chịu đựng tốt hơn cỡ tôm dưới 2cm .Tôm sống tự nhiên ở biển có nhiệt độ ổn định 25-32oC, vẫn sống được khi nhiệt độ thay đổi lớn. Đang sống ở bể ương, nhiệt độ nước là 15oC, thả vào ao có nhiệt độ 122-28oC tôm vẫn sống 100%, dưới 9oC tôm chết dần. Tăng dần 41oC, cỡ tôm dưới 4cm và trên 4cm chỉ chịu được tối đa 12h rồi chết. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
1.2.4. Tập tính ăn và nhu cầu dinh dưỡng:
Tôm thẻ chân trắng là loại tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức ăn của nó cần các thành phần như: protid, lipid, glucid, vitamin vả muối khoáng…thiếu hay không cẩn đối đều ảnh hưởng tới sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Hệ số chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường lượng thức ăn chỉ cần bằng 5% trọng lượng tôm( thức ăn ướt). Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa vả cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về lượng thưc ăn lên gấp 3-5 lần. Tôm thẻ chân trắng không cần lượng protein nhiều như tôm sú, 35% protein được coi là thích hợp hơn cã, nếu thức ăn thêm mục tươi tôm rất ưa chuộng ( trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.5. Sinh trưởng và tuổi thọ:
Trong điều kiện sinh thái tự nhiên tôm bột 4cm đến cỡ tôm thu hoạch trung bình 40g (chiều dài 14cm) mất 180 ngày. Tôm nhỏ thay vỏ vài giờ, tôm lớn cần 1-2 ngày, tuổi thọ trung bình của tôm ít nhất trên 32 tháng. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tai Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần. Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. Một điều chưa giải thích được là tôm chân trắng nuôi trong nước ao lớn mau (50%) hơn là nuôi trong nước giếng đã được khử trùng, có lẽ nhờ ảnh hưởng của cộng đồng vi sinh vật trong nước ao theo kết quả khảo cứu của Viện hải dương học Hawaii. ( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.6. Sinh sản:
1.2.7. Mùa vụ sinh sản:
Ở biển tự nhiên đều bắt được tôm mẹ mang trứng. Ở bắc Ecuador mùa đẻ rộ vào tháng 4-5, trong khi đó ở Peru mùa tôm đẻ từ thang12-4 năm sau (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng sinh sản ở loại hình sinh sản túi tinh mở, khác với loại hình chứa túi tinh kín nhu ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự sinh sản mở là : tôm mẹ lột vỏ - thành thục – giao phối(thụ tinh) – đẻ trứng - ấp nở.
1.2.6.2. Kích cỡ và tuổi thành thục:
Thông thường phải từ 12 tháng tuổi trở nên thành thục. (Thái Bá Hà. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN)
1.2.6.3. Đẻ Trứng và sức sinh sản:
Trong thiên nhiên tôm trưởng thành, giao vỹ, sinh sản trong những vùng biển có độ sâu 70m với nhiệt độ 26-28oC, độ mặn khá cao khoảng 35%o.( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN)
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào thời gian 9 giờ tối đến 3 giờ sáng. Thời gian bắt đầu đẻ cho tới khi kết thúc chỉ mất 1-2 phút. Trứng sau khi đẻ có màu vỏ đậu xanh. Các chùm tinh của tôm đực cũng được tái sinh nhiều lần. Tôm cái trứng đã thành thuc nhưng không được thụ tinh, vẫn có thể đẻ trứng bình thường nhưng không thụ tinh.
Sau khi đẻ xong trứng trải qua các giai đoạn ấu trùng, tơi1 poslarvae bơi vào gần bờ sông, sau vài thang tôm con trưởng thành và bơi ra biển rồi giao vỹ tiếp.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng lại phát dục tiếp. Con đẻ nhiều nhất 10 lần/năm, thường thì đẻ 3-4 ngày thì lột vỏ.
Số lượng trứng tùy theo kích cỡ của tom6me, tôm mẹ có khối lương tư-35g, lượng trứng 100.000 – 250.000 hạt, trứng có đường kính 0,22mm, sự phát triển của trứng sau khi đẻ đến giai doan đầu tiên của Nauplius diễn ra trong khoảng 14 giờ. (Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004 NXB NN)
1.3. Giớ thiệu về công ty CP thủy sản Trung Sơn:
Địa chỉ: Ấp Song Chinh – xã Bình Trị - huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
1.3.1. Lịch sử hình thành:
Dự án của công ty CP thủy sản Trung Sơn tại Kiên Giang được thực hiện vào năm 2004, dự án bắt đầu với 4 ao nuôi tôm sú công nghiệp. Mỗi ao diện tích 1ha. Sau một năm đạt kết quả tốt, đến năm 2005 công ty cho xây dựng thêm 20 ao nữa, năm 2006 mở rông thêm 24 ao, năm 2007 mở thêm 16 ao. Vào cuối năm 2008, sau khi có chỉ thị của bộ Nông nghiệp& phát triển nông thôn về phát triển tôm thẻ chân trắng ở DBSCL và được sự cho phép của sở thủy sản tỉnh Kiên Giang nên công ty đã chuyển toàn bộ diện tích ao nuôi tôm sú sang tôm thẻ chân trắng.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức:
Giám Đốc
Phó Giám Đốc
Phòng
Nhân
Sự
Phòng
Kỹ
Thuật
Phòng
Kế
Toán
Phòng
Thí
Nghiệm
Trưởng khu, phó khu
Trưởng Lô
Thủ kho
Công nhân
Hình 1.3.2. Cơ cấu tổ chức của công ty CP thủy sản Trung Sơn
Em xin chân thành cảm ơn!
Ban giám hiệu, các phòng, khoa trường cao đẳng Kinh Tế Kỹ Thuật Cần Thơ đã
tạo điều kiện thuận lợi cho em đi thực tập.
Các thầy cô khoa nông nghiệp đặc biệt là cô Nguyễn Thị Mỹ Vân đã tận tình giúp đỡ em về địa điểm thực tập, cô Trần Ngọc Huệ đã hướng dẫn em viết bài báo cáo.
Ban lãnh đạo công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn, đã tạo điều kiện cho em thực tập, nghiên cứu tại công ty
Anh Hoà (phòng nhân sự công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn), chú Ngô Xuân Tùng (trưởng khu I), anh Phạm Hồng Sơn (trưởng lô 9, 10, 11, 12) và các anh công nhân trực tiếp nuôi ao đã tận tình giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho em trong suốt thời gian thực tập tại công ty.
Tập thể lớp CNT07 đã động viên cổ vũ tinh thần trong quá trình thực tập.
Em xin chân thành biết ơn !
Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2009
Phạm Duy
MỞ ĐẦU
Hàng năm dân số thê giới không ngừng gia tăng, nhu cầu thực phẩm cho con người trở nên cấp thiết. Riêng nhu cầu về tôm theo thống kê của FAO (tổ chức lương thực và nông nghiệp lien hiệp quốc), sản lượng tôm trên thế giới trên 2,5 triệu tấn (1993) vừa khai thác tự nhiên vừa nuôi trong ao hồ…nhưng vẫn chưa thoả mãn cho nhu cầu con người. Trong khi đó sản lương khai thác ngoài tự nhiên đã bão hoà khoảng 2 triệu tấn (1993). Vì vậy người ta phải chuyển sang nghề nuôi tôm để đáp ừng được nhu cầu. Hiện nay nghề nuôi tôm đã và đang phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Ắ như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philipin, Việt Nam…Trong đó Việt nam nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu nóng quanh năm, thiên nhiên ưu đã đặc biệt là có đường bờ biển dài từ Bắc tới Nam, hệ thống sông ngòi chằng chịt. Do dó nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển ở cả 3 vùng nước ngọt,lợ,mặn. Đối tượng phát triển nhanh là con tôm sú. Nhưng hiện nay do nhu cầ của thị trường thế giới, rủi ro trong sản xuất nên con tôm thẻ chân trắng đang canh tranh vi thế với con tôm sú, với những ưu điểm nổi trội như: tốc độ lớn nhanh, thích hợp với những biến động nhiệt độ, pH, độ mặn rộng, sức đề kháng cao và ít bị mắc một số bệnh nguy hiểm. Chất lượng thịt cua tôm thơm ngon, chắc, tỉ lệ thịt chiếm trên 60% trọng lượng thịt.
Ở nước ta vài năm gần đây tôm thẻ chân trắng được nuôi rộng rãi ở các tĩnh như: Bạc Liêu, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận…Tuy nhiên, thời gian gần đây khi có chỉ thị của bộ NN và Phát Triển Nông Thôn về phát triển của đối tượng này không ít người nuôi tôm sú đã để ý tới việc nuôi tôm thẻ chân trắng.
Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi mới, những nghiên cứu trong nước về loài tôm này chưa nhiều về giống và quy trình nuôi trong điều kiện môi trường đất, nước. Hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng dựa trên quy trình nuôi tôm sú. Do vậy tiếp tục tìm hiểu kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng trong ao nuôi thâm canh là cần thiết để mang lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo nghề nuôi tôm phát triển ổm định.
Mục tiêu đề tài: hoàn thiện quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm theo mô hình công nghiệp, không dùng kháng sinh và các loại thuốc có hại tới người sử dụng, nhằm mục tiêu xuất khẩu tôm sạch qua nước ngoài.
PHẦN 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1.1. Giới thiệu về đối tượng nghiên cứu:
1.1.1. Nguồn gốc tôm thẻ chân trắng – Penaeus vannamaei:
Tôm thẻ chân trắng - P. vannaeus có nguồn gốc từ châu Mỹ, nuôi phổ biến ở các nước nam Mỹ. Du nhập vào nước ta khoảng năm 2001 (fisternet.gov.vn).
1.1.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng:
1.1.2.1. Trên thế giới:
Có nhiều nước Mỹ La Tinh ở bờ Đông Thái Bình Dương có nghề khai thác tôm chân trắng như Pêru, Êquađo, Êl Sanvađo, Panama, Costa Rica. Do nguồn lợi tôm rất ít và lại biến động nên nghề khai thác tôm không phát triển. Năm 1992 - 1993 có sản lượng kỷ lục là 14 nghìn tấn thì riêng Êquađo chiếm 12 nghìn tấn. Tới năm 1997 sản lượng chỉ còn 4,5 nghìn tấn và năm 1999 lại tăng lên 8 nghìn tấn. Nhìn chung sản lượng khai thác tự nhiên không đáng kể. Nguồn lợi tôm tự nhiên được khai thác chủ yếu là tôm bố mẹ phục vụ cho nghề nuôi tôm nhân tạo rất phát triển ở khu vực. Ngoài ra việc vớt tôm giống tự nhiên phục vụ nuôi nhân tạo cũng có vai trò quan trọng.
1.1.2.2. Sản lượng tôm nuôi nhân tạo:
Tôm chân trắng là đối tượng nuôi nhân tạo quan trọng thứ nhì (sau tôm sú) trên thế giới, còn ở châu Mỹ là số 1. Sản lượng nuôi ở châu Mỹ như sau :
Năm
Sản lượng (1.000T)
1990
86
1992
132
1994
107
1995
140
1997
169
1998
191
1999
140
2000
90 (dự tính)
Năm 1998 sản lượng đạt mức kỷ lục là 191 nghìn tấn chiếm 23% tổng sản lượng tôm nuôi thế giới. Các năm 1999 - 2000 dịch bệnh đốm trắng tàn phá nặng nề tôm nuôi ở châu Mỹ (chủ yếu là tôm chân trắng). Chỉ sau 2 năm sản lượng giảm quá một nửa. Như vậy là sau một thập kỷ sản lượng tôm chân trắng của châu Mỹ lại quay về vị trí ban đầu. Năm 2000 theo thống kê sơ bộ sản lượng tôm chân trắng chỉ còn chiếm 11% sản lượng tôm nuôi thế giới.
1.1.2.3. Các nước nuôi chủ yếu:
Ở châu Mỹ có 12 quốc gia nuôi tôm chân trắng. Vào thời kỳ hưng thịnh (1998) sản lượng của chúng chiếm hơn 90% sản lượng tôm nuôi ở Tây Bán cầu. Sau đây là các nước nuôi cho sản lượng cao.
Êquađo :Từ lâu Êquađo đã là nước nuôi tôm nổi tiếng trên thế giới và luôn luôn ở tốp dẫn đầu cho tới năm 1999.
Mêhicô : Thành công lớn của Êquađo về nuôi tôm chân trắng xuất khẩu không chỉ tạo ra phong trào nuôi rầm rộ ở Mêhicô mà còn ở hàng loạt các nước Mỹ La Tinh (kể cả Mỹ). Mêhicô nhanh chóng trở thành nước nuôi tôm chân trắng lớn thứ nhì châu Mỹ
Panama : Đứng hàng thứ ba về nuôi tôm chân trắng
Các nước khác : Tiếp theo 3 nước dẫn đầu về nuôi tôm chân trắng là Êquađo, Mêhicô và Panama là các nước Mỹ La tinh khác như Belize, Vênêzuêla, Pêru, Colômbia ... Các nước này đều có các kế hoạch đầy tham vọng về phát triển nuôi tôm chân trắng xuất khẩu sang Mỹ. Như đã nêu, dịch bệnh đốm trắng đã lan rộng ra khắp châu Mỹ trong 2 năm 1999 - 2000 đã gây tổn thất lớn cho nhiều nước mới bắt đầu phát triển nuôi tôm. Nếu không sớm tìm được các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và phòng ngừa dịch bệnh thì có thể phong trào nuôi tôm chân trắng ở khu vực vừa mới phát động rất sôi nổi sẽ bị ảnh hưởng lớn.
1.1.2.4. Tôm chân trắng đang được di giống từ Đông sang Tây Thái Bình Dương:
Sau khi được nhiều nước châu Mỹ nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống sang nuôi ở Ha Oai và Hoholulu của Mỹ. Từ đây tôm chân trắng lan sang Đông Á và Đông Nam Á.
Trung Quốc là nước châu Á quan tâm tới tôm chân trắng sớm nhất. Từ năm 1998 họ đã công bố nuôi tôm chân trắng thành công và sẵn sàng chuyển giao công nghệ (cung cấp con giống và kỹ thuật nuôi) cho các nước châu Á nào muốn nhập nội. Năm 2000 vừa qua có thông tin nói rằng Trung Quốc đã xuất khẩu sản phẩm tôm chân trắng, nhưng không rõ nhiều hay ít. Tuy nhiên, ở thị trường nội địa của Trung Quốc thì người tiêu dùng chưa mặn mà với đối tượng mới này.
Nhiều nước châu Á khác như Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Việt Nam ... cũng đã nhập nội tôm chân trắng để nuôi với hy vọng đa dạng hoá các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú như hiện nay. (trích ở fisternet.gov.vn)
1.1.2.2 Ở Việt Nam:
Thứ tư, 30 Tháng một 2008. Bộ NN-PTNT đồng ý cho phép các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ và ĐBSCL nuôi tôm chân trắng theo hình thức thâm canh, nhưng phải đảm bảo các điều kiện theo tiêu chuẩn 28 mà Bộ vừa ban hành. Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận vẫn được nuôi tôm chân trắng theo nhu cầu của nhà đầu tư và nằm trong vùng quy hoạch của địa phương.
Chủ trương này của Bộ NN-PTNT được cụ thể hoá tại Chỉ thị 228 về việc phát triển nuôi tôm chân trắng, do Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng ký ngày 25/1. Theo đó, trại sản xuất tôm giống tại các tỉnh thuộc ĐBSCL phải nằm trong vùng sản xuất giống tập trung đã được Bộ quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, có công suất 500 triệu tôm PL15 trở lên.
Riêng đối với trại giống tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận có thêm yêu cầu là phải nằm trong vùng đã được địa phương quy hoạch, nhưng công suất giảm một nửa so với trại tôm ở ĐBSCL (tối thiểu 250 triệu tôm PL15/năm).
Việc nuôi tôm phải được thực hiện nghiêm theo tiêu chuẩn 28 TCN 191: 2004 vùng nuôi tôm; điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2004/QĐ-BTS, ngày 14/1/2004, của Bộ Thủy sản trước đây. Bộ NN-PTNT yêu cầu UBND các tỉnh chỉ đạo Sở NN-PTNT các tỉnh, các ban ngành địa phương quản lý, hướng dẫn phát triển nuôi tôm chân trắng theo kế hoạch, quy hoạch. Đồng thời, cần kiểm tra và xử lý nghiêm những trường hợp nuôi tôm chân trắng không đúng quy định, sản xuất lưu hành tôm giống không đạt tiêu chuẩn chất lượng để tôm chân trắng thoát ra các vùng nước xung quanh, gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh vùng nuôi. Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng yêu cầu Vụ Nuôi trồng Thuỷ sản sớm xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống, trại sản xuất giống, tiêu chuẩn về tôm bố mẹ, tiêu chuẩn tôm chân trắng thâm canh.
Cục HTX và Phát triển nông thôn phối hợp với Vụ Nuôi trồng Thủy sản chỉ đạo địa phương nghiên cứu tổ chức sản xuất để các DN chế biến xuất khẩu tham gia nuôi tôm chân trắng, xây dựng các mô hình HTX, tổ hợp tác, cộng đồng, khuyến khích đầu tư, tạo mối liên kết 4 nhà (khoa học - sản xuất - đầu tư - doanh nghiệp) để phát triển tôm chân trắng tạo nguồn nguyên liệu an toàn trên cả nước
Tôm chân trắng đang nuôi ở nước ta là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm phát triển tốt, cho năng suất cao, giá thành thấp, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu
Song việc nuôi tôm thẽ chân trắng hiện chỉ hạn chế ở một số tỉnh, thành nhất định. Thời gian qua, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu sản xuất giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được cải thiện.
Tôm chân trắng đã và đang nuôi phát triển theo chiều hướng tốt trên vùng đất thịt, đất cát từ Quảng Ninh đến Bình Thuận. Sản lượng tôm chân trắng chiếm 5-7% sản lượng tôm nuôi trên phạm vi cả nước. Nhiều cơ sở nuôi đạt năng suất cao, từ 12-14 tấn/ha, hiệu quả kinh tế khá, thị trường thế giới có nhu cầu lớn.
Thống kê của Bộ NN-PTNT cho thấy, tại các tỉnh ĐBSCL, việc nuôi tôm sú cũng bị “đe dọa” do phải cạnh tranh gay gắt với tôm chân trắng. Giá thành nuôi 1kg tôm chân trắng nguyên liệu chỉ gần 30.000 đồng, trong khi nuôi 1kg tôm sú tốn 65.000-75.000 đồng, nếu bán ở mức đó thì người nuôi thường bị lỗ. Thị phần mặt hàng tôm sú chế biến giảm mạnh do ảnh hưởng của việc tăng sản lượng xuất khẩu tôm chân trắng từ các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan. Trong khi đó, người tiêu dùng thế giới có xu hướng chuyển qua ăn tôm chân trắng do giá loại tôm này đang rẻ hơn tôm sú Việt Nam từ 30-50%. Giá tôm sú nguyên liệu tại Cà Mau đang ở mức 160.000 đồng/kg loại 20 con; 104.000 đồng/kg loại 30 con. Đây là một thực trạng đáng lo ngại: tôm sú khó cạnh tranh, trong khi đó tôm chân trắng chiếm khoảng gần 70% tổng sản lượng tôm toàn cầu. Do vậy, mặc dù cho phép đa dạng hoá đối tượng nuôi, Bộ NN-PTNT khuyến cáo trong những năm tới tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ lực tại ĐBSCL. Chủ trương của Bộ là cho phép nuôi tôm chân trắng để đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập, tận dụng tiềm năng diện tích đủ điều kiện nuôi. Song, cần tránh tình trạng nuôi ồ ạt không đủ điều kiện dẫn đến rủi ro đáng tiếc xảy ra. (trích ở www.vietbao.vn)
Tôm thẻ chân trắng phát triển ở một số tỉnh như:
- Ninh Thuận: năm 2007 thả nuôi khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch đạt trên 5.000 tấn. Năng suất bình quân nuôi trên cát đạt 12 tấn/ha. Đến cuối năm 2007 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trong toàn tỉnh là 250 ha, năng suất bình quân đạt trên 10 tấn/ha (trích http://vndgkhktnn.vietnamgateway.org)
- Quảng Nam: Ngày 25/5/2009, ông Võ Văn Năm, Phó Giám dốc Sỏ NN&PTNT tỉnh Quảng Nam cho biết, nông dân nuôi tôm thẻ chân trắng tại Quảng Nam đang bội thu. Đây là một tin vui bởi vì theo thống kê vụ này, cả tỉnh có 1.400 ha tôm thẻ chân trắng, năng suất bình quân đạt 10 tấn/ha, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. sáng ngày 25/5, giá bán loại tôm này là 45.000 đồng/kg (thấp hơn cùng kỳ năm ngoái 10.000 đồng/kg). Tuy nhiên, với mức giá này, người nuôi tôm vẫn có lãi 200 triệu đồng/ha.
- Bạc Liêu: Nuôi thử nghiệm thành công tôm thẻ chân trắng Sau thời gian nuôi thử nghiệm hơn 20ha tôm thẻ chân trắng tại thị xã Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) cho thu hoạch với năng suất đạt trung bình từ 8-10 tấn/ha, các chuyên gia đã đưa ra kết luận: Tôm thẻ chân trắng nuôi theo mô hình công nghiệp phù hợp với vùng đất ven biển Bạc Liêu, đặc biệt dọc theo tuyến đê biển thuộc các huyện Hòa Bình, Đông Hải, thị xã Bạc Liêu. Theo tính toán, hiện giá 1 kg tôm thẻ thương phẩm cỡ 80-100 con/kg từ 48.000-50.000 đồng, trong đó chi phí đầu tư nuôi mất từ 35.000 - 40.000 đồng, cho lợi nhuận sau chi phí từ 10.000-15.000 đồng; với năng suất từ 8-10 tấn/ha, sẽ cho thu nhập khoảng trên 100 triệu đồng/ha. Nếu tôm kích cỡ lớn, lợi nhuận sẽ tăng lên cao hơn. Với kết quả thành công bước đầu, tỉnh Bạc Liêu có kế hoạch mở rộng quy hoạch diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng bền vững lâu dài; cho phép mở rộng diện tích nuôi tại Công ty Duyên Hải (thị xã Bạc Liêu), Công ty nuôi trồng thủy sản Vĩnh Hậu (Hòa Bình) và khu vực giữa tuyến đê biển, đê Trường Sơn kéo dài đến giáp ranh xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, người dân trong vùng này đang gặp khó khăn về vốn, kỹ thuật, đặc biệt là nguồn con giống rất hạn chế.
- Kiên Giang: Theo ông Hứa Thanh Hà-Phó phòng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn huyện Kiên Lương (Kiên Giang): Hiện nay, các chủ trang trại trong huyện đang thu hoạch vụ tôm thẻ chân trắng đầu tiên sau 3 tháng nuôi thả, năng suất bình quân đạt từ 10-12 tấn/ha, với giá bán 60.000-65.000 đồng/kg (loại 70-75 con/kg), tính ra mỗi ha lợi nhuận khoảng 250 triệu đồng, cao hơn nhiều so với tôm sú.
Tôm thẻ chân trắng có ưu thế là thời gian nuôi ngắn hơn, tôm phát triển đồng đều, sử dụng nguồn thức ăn cho tôm ít hơn và giá cao hơn tôm sú khoảng 5%. Tuy nhiên, qui trình kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng được thực hiện nghiêm ngặt hơn so với nuôi tôm sú, nhất là khâu xử lý ao nuôi, môi trường nước và nhiều yếu tố khác có liên quan quá trình phát triển của con tôm. Một khó khăn nữa là tôm giống phải nhập về từ các tỉnh miền Trung với giá thành cao tù 50-55 đồng/con. Còn muốn sản xuất tôm giống thì các doanh nghiệp lớn, có công nghệ cao mới có thể sản xuất được và phải nhập giống bố mẹ từ nước ngoài về.
Huyện Kiên Lương hiện có 120 ha tôm thẻ chân trắng được Sở Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang cho phép nuôi theo mô hình công nghiệp và do một số công ty như Trung Sơn, Minh Phú, Pim (Hạ Long) triển khai thực hiện. Đây cũng là địa điểm nuôi tôm thẻ chân trắng đầu tiên thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên (Kiên Giang) trong thời gian gần đây và đạt hiệu quả cao. Sắp tới các công ty nuôi tôm ở đây sẽ đầu tư dây chuyền sản suất tôm giống chân trắng tại chỗ để giảm giá thành sản suất và cung cấp con giống cho bà con ngư dân mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tại khu vực tứ giác Long Xuyên và một số địa bàn khác trong tỉnh.
1.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam:
1.1.3.1. Thuận lợi:
- Thời gian nuôi tôm thẻ chân trắng ngắn khoảng 3-3,5 thang thì thu hoạch, đăc điểm này giúp cho tôm giảm được nhiều rủi ro vì thời gian càng dài thì khả năng bi nhiễm bệch càng nhiều, tồn nhiều chi phí thức ăn, thuốc…
- Năng suất cao hơn tôm sú có thể tới 2-3 lần (12-24 tấn/ha/vụ), chi phí sản suất thấp hơn 20-30% so với tôm sú.
-Nhu cầu tôm thẻ chân trắng trên thế giới rất lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ và Nhật Bản nhu cầu ngày càng tăng.
1.1.3.2. Khó Khăn:
3/3/2009 Việc nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát, và đã có cảnh báo nguy cơ của phong trào này.
Phong trào
Thị trường thế giới giảm tiêu thụ tôm cỡ lớn đắt tiền, tăng lượng tiêu thụ tôm cỡ nhỏ rẻ tiền, mở ra cơ hội cho tôm thẻ chân trắng, với thời gian nuôi ngắn hơn tôm sú, thu lợi nhanh.
Kế hoạch của Bộ NN-PTNT, năm 2009 các tỉnh ĐBSCL nuôi sản lượng khoảng 100.000 tấn tôm thẻ chân trắng, chiếm 26,3 phần trăm tổng sản lượng tôm nuôi nước lợ. Thống kê đến giữa tháng 2/2009 của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), ĐBSCL lên kế hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng 2.148 ha nhưng mới thả nuôi khoảng 75 ha (3,4 phần trăm).
Việc thả nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát và nhiều hộ nuôi ngoài vùng quy hoạch. Tại Trà Vinh, đến nay có trên 50 triệu con tôm thẻ chân trắng được thả nuôi trên diện tích 71 ha mặt nước, trong đó chỉ có khoảng 20 ha được cơ sở giáo dục Bến Giá, xã Long Hữu (Duyên Hải) thả nuôi trong vùng quy hoạch, có hiệu quả khá từ 80 - 100 triệu đồng/ha/vụ. Số còn lại phần lớn là nuôi nhỏ lẻ ngoài vùng quy hoạch, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh nên bị thua lỗ.
Dịch bệnh
Nhược điểm lớn nhất của con tôm thẻ chân trắng là bị nhiều loại dịch bệnh nhất là bệnh taura. Các tỉnh ĐBSCL lại phải nhập con giống từ các tỉnh miền Trung nên khó kiểm soát làm cho kết quả nuôi không ổn định.
Huyện Duyên Hải (Trà Vinh), tại thời điểm hiện nay chỉ có 20/53,2 ha nuôi tôm thẻ chân trắng có hiệu quả. Ông Lâm Minh Thế, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Duyên Hải, cảnh báo: “Các tỉnh miền Trung có ưu thế lựa chọn con giống có chất lượng nên con giống có chất lượng thấp hơn chắc chắn sẽ được đổ về các tỉnh ĐBSCL và tình hình dịch bệnh trên tôm thẻ chân trắng có thể trầm trọng hơn”.
Việc kiểm tra chất lượng con giống nhập vào các tỉnh là cực kỳ khó khăn. Bởi tôm giống được nhập bằng nhiều con đường (đường bộ, đường thủy…), nhất là nhập lậu. Việc quản lý và kiểm dịch con giống của ngành chuyên môn cũng chưa thực hiện được, nguồn giống phần lớn cung cấp qua trung gian của các đơn vị ngoài tỉnh cho người nuôi khi có nhu cầu.
Ông Robin, một chuyên gia Mỹ về lai tạo và cải tiến giống tôm, đang làm việc cho Tập đoàn C.P (tập đoàn cung cấp giống thủy sản, heo, gà; kinh doanh thức ăn, thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản), nói: “Bệnh taura trước đây đe dọa nghiêm trọng tôm thẻ chân trắng thì bây giờ không còn là bệnh đáng ngại nhất vì đã có nhiều loại giống kháng bệnh này. Bệnh đáng ngại nhất là chăm sóc không kỹ lưỡng, quy trình nuôi không bảo đảm”.
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
Thống kê của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), kế hoạch năm 2009, các tỉnh ĐBSCL nuôi 566.069 ha tôm sú. Đến hết tháng 1/2009 mới nuôi 78.822 ha (13,9%). Theo các quy định hiện hành của Bộ NN-PTNT cũng như các địa phương, tôm thẻ chân trắng phải nuôi thâm canh trong vùng qui hoạch để tránh gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh. Thực tế, vùng nuôi tôm thẻ chân trắng rất khó cách ly với vùng nuôi tôm sú.
Ông Phạm Nam Dương - PGĐ Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh nói: “Cần xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm”. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn việc xử phạt đối với những hành vi vi phạm.
Một vấn đề khác là tôm thẻ chân trắng không dễ tiêu thụ, nhất là trong điều kiện nuôi nhỏ lẻ, rải rác hiện nay. Vừa qua, người nuôi chủ yếu bán cho thương lái, số lượng rất hạn chế. Mặt khác, nếu đường vận chuyển không thuận lợi, kéo dài thời gian tôm sẽ bị giảm chất lượng (gãy đầu, xuống màu,…).
Anh Lê Vũ Phương, một hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Long Hữu (Duyên Hải, Trà Vinh), cho biết: “Vụ thẻ nuôi tôm thẻ đầu tiên tôi thả 500.000 con, mật độ 80 con/m2, sau 2,5 tháng thu hoạch, năng suất bình quân 8,6 tấn/ha, giá bán từ 45.000 - 50.000 đồng/kg. Lợi nhuận khá, nhưng khó tiêu thụ”.
Khó khăn nhất hiện nay là người nuôi tôm thẻ chân trắng phải dùng tiền mặt cho các chi phí thức ăn, con giống, thuốc thú y, do cơ sở dịch vụ cung cấp từ ngoài tỉnh không bán chịu như đối với người nuôi tôm sú.
Vốn đầu tư ban đầu lại khá lớn vì mật độ thả nuôi đến 80-100 con/m2, dày gấp 7-10 lần so với tôm sú, mà giá con giống bằng hoặc cao hơn con tôm sú. Người nuôi tôm sú đã gặp khó về vốn, nuôi tôm thẻ chân trắng càng khó hơn.
Hiện con giống tôm thẻ chân trắng được cung cấp chủ yếu từ các Cty CP, AND, Việt-Úc và Trại giống Anh Việt. Việc quản lý chất lượng con giống, đặc biệt là kiểm soát dịch bệnh trên con giống chưa chặt chẽ, nguy cơ tôm thẻ chân trắng gây bệnh lan rộng, phát tán sang con tôm sú là rất lớn. ( trích http://www.vietlinh.vn)
1.2. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng:
1.2.1. Đặc tính phân loại và hình thái và phân bố:
1.2.1.1. Đặc tính phân loại:
Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp ) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei
1.2.1.2. Hình thái, cấu tạo, phân bố
1.2.1.3. Hình thái, cấu tạo:
Cũng như các loài tôm cùng họ Penaeid, tôm chân trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.
Hình 1.2.1.2. Hình thái bên ngoài của tôm hẻ chân trắng.
1.2.1.4. Phân bố:
Tôm thẻ chân trắng phân bố chủ yếu ở vùng nước ven bờ phía Đông Thái BìnhDương từ phía bắc Peru đến phía nam Mehico. Tôm phân bố tập trung ở vùng ven bờ của Ecuador.
Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã di giống ra nhiều vùng biển cả bờ tây lẫn bờ đông của châu Mỹ, ngoài ra tôm còn di giống qua Hawaii và nhiều nước Đông Nam Ắ.
1.2.2. Tập tính sống:
Tôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểmTôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểm:
Đáy cát, có độ sâu khoảng 70m, nhiệt độ nước ổn định từ 25-30oC, độ mặn từ 28-34o/oo, ph 7,7-8,3 (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển, gần bờ, tôm con ưa sống ở khu vực giàu thức ăn.
Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn, tôm lột xác về đêm, khoảng 20 ngày lột xác một lần. Nuôi trong phòng thí nghiệm ít thấy chúng ăn thịt lẫn nhau.
1.2.3. Tính thích ứng với môi trường sống:
Tôm thẻ chân trắng có tính thích nghi mạnh đối với sự thay đổi của môi trường sống. Lên khỏi mặn nước khá lâu mà vẫn không chết. Cỡ tôm từ 1-6cm đang sống ở độ mặn 20%o ở bể ương, khi di chuyển vào các ao nuôi tôm, có thể sống trong phạm vi độ mặn 5-50%o‑, thích hợp nhất là 10-40%o, nếu dưới 5%o hoặc trên 50%o tôm sẽ chết dần, những con tôm cỡ 5cm có sức chịu đựng tốt hơn cỡ tôm dưới 2cm .Tôm sống tự nhiên ở biển có nhiệt độ ổn định 25-32oC, vẫn sống được khi nhiệt độ thay đổi lớn. Đang sống ở bể ương, nhiệt độ nước là 15oC, thả vào ao có nhiệt độ 122-28oC tôm vẫn sống 100%, dưới 9oC tôm chết dần. Tăng dần 41oC, cỡ tôm dưới 4cm và trên 4cm chỉ chịu được tối đa 12h rồi chết. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
1.2.4. Tập tính ăn và nhu cầu dinh dưỡng:
Tôm thẻ chân trắng là loại tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức ăn của nó cần các thành phần như: protid, lipid, glucid, vitamin vả muối khoáng…thiếu hay không cẩn đối đều ảnh hưởng tới sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Hệ số chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường lượng thức ăn chỉ cần bằng 5% trọng lượng tôm( thức ăn ướt). Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa vả cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về lượng thưc ăn lên gấp 3-5 lần. Tôm thẻ chân trắng không cần lượng protein nhiều như tôm sú, 35% protein được coi là thích hợp hơn cã, nếu thức ăn thêm mục tươi tôm rất ưa chuộng ( trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.5. Sinh trưởng và tuổi thọ:
Trong điều kiện sinh thái tự nhiên tôm bột 4cm đến cỡ tôm thu hoạch trung bình 40g (chiều dài 14cm) mất 180 ngày. Tôm nhỏ thay vỏ vài giờ, tôm lớn cần 1-2 ngày, tuổi thọ trung bình của tôm ít nhất trên 32 tháng. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tai Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần. Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. Một điều chưa giải thích được là tôm chân trắng nuôi trong nước ao lớn mau (50%) hơn là nuôi trong nước giếng đã được khử trùng, có lẽ nhờ ảnh hưởng của cộng đồng vi sinh vật trong nước ao theo kết quả khảo cứu của Viện hải dương học Hawaii. ( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.6. Sinh sản:
1.2.7. Mùa vụ sinh sản:
Ở biển tự nhiên đều bắt được tôm mẹ mang trứng. Ở bắc Ecuador mùa đẻ rộ vào tháng 4-5, trong khi đó ở Peru mùa tôm đẻ từ thang12-4 năm sau (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng sinh sản ở loại hình sinh sản túi tinh mở, khác với loại hình chứa túi tinh kín nhu ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự sinh sản mở là : tôm mẹ lột vỏ - thành thục – giao phối(thụ tinh) – đẻ trứng - ấp nở.
1.2.6.2. Kích cỡ và tuổi thành thục:
Thông thường phải từ 12 tháng tuổi trở nên thành thục. (Thái Bá Hà. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN)
1.2.6.3. Đẻ Trứng và sức sinh sản:
Trong thiên nhiên tôm trưởng thành, giao vỹ, sinh sản trong những vùng biển có độ sâu 70m với nhiệt độ 26-28oC, độ mặn khá cao khoảng 35%o.( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN)
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào thời gian 9 giờ tối đến 3 giờ sáng. Thời gian bắt đầu đẻ cho tới khi kết thúc chỉ mất 1-2 phút. Trứng sau khi đẻ có màu vỏ đậu xanh. Các chùm tinh của tôm đực cũng được tái sinh nhiều lần. Tôm cái trứng đã thành thuc nhưng không được thụ tinh, vẫn có thể đẻ trứng bình thường nhưng không thụ tinh.
Sau khi đẻ xong trứng trải qua các giai đoạn ấu trùng, tơi1 poslarvae bơi vào gần bờ sông, sau vài thang tôm con trưởng thành và bơi ra biển rồi giao vỹ tiếp.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng lại phát dục tiếp. Con đẻ nhiều nhất 10 lần/năm, thường thì đẻ 3-4 ngày thì lột vỏ.
Số lượng trứng tùy theo kích cỡ của tom6me, tôm mẹ có khối lương tư-35g, lượng trứng 100.000 – 250.000 hạt, trứng có đường kính 0,22mm, sự phát triển của trứng sau khi đẻ đến giai doan đầu tiên của Nauplius diễn ra trong khoảng 14 giờ. (Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004 NXB NN)
1.3. Giớ thiệu về công ty CP thủy sản Trung Sơn:
Địa chỉ: Ấp Song Chinh – xã Bình Trị - huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
1.3.1. Lịch sử hình thành:
Dự án của công ty CP thủy sản Trung Sơn tại Kiên Giang được thực hiện vào năm 2004, dự án bắt đầu với 4 ao nuôi tôm sú công nghiệp. Mỗi ao diện tích 1ha. Sau một năm đạt kết quả tốt, đến năm 2005 công ty cho xây dựng thêm 20 ao nữa, năm 2006 mở rông thêm 24 ao, năm 2007 mở thêm 16 ao. Vào cuối năm 2008, sau khi có chỉ thị của bộ Nông nghiệp& phát triển nông thôn về phát triển tôm thẻ chân trắng ở DBSCL và được sự cho phép của sở thủy sản tỉnh Kiên Giang nên công ty đã chuyển toàn bộ diện tích ao nuôi tôm sú sang tôm thẻ chân trắng.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức:
Giám Đốc
Phó Giám Đốc
Phòng
Nhân
Sự
Phòng
Kỹ
Thuật
Phòng
Kế
Toán
Phòng
Thí
Nghiệm
Trưởng khu, phó khu
Trưởng Lô
Thủ kho
Công nhân
Hình 1.3.2. Cơ cấu tổ chức của công ty CP thủy sản Trung Sơn
Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2009
MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP CÁ - VỊT
MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP CÁ - VỊT
I. XÂY DỰNG MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP CÁ - VỊT
1. Chọn ví trí xây dựng mô hình
Hình 1: Một hình thức nuôi vịt phổ biến ở ĐBSCL
Chọn vị trí xây dựng mô hình nuôi gồm: ao và chuồng nuôi vịt cần lưu ý một số điểm như sau:
- Đất thịt không bị nhiễm phèn, có khả năng sử dụng được nguồn nước giếng
- Gần kênh rạch để tiện cho việc cấp nước trong quá trong nuôi
- Hệ thống ao nuôi không nên xây dựng gần nhỡng cây cối tán lớn, tán cây sẽ che bóng mát nước, thiếu ánh sáng, khả năng tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá như thực vật phù du, động vật phù du, động vật đáy... sẽ bị hạn chế. Mặt khác lá cây khi rơi rụng xuống ao cũng có thể làm thối nước trong ao nuôi.
- Gần nhà để tiện lợi cho việc chăm sóc và bảo vệ.
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
a. Chuồng
Tùy theo điều kiện kinh tế gia đình, điều kiện về đất đai, chuồng chăn nuôi vịt có thể được xây dựng bằng tre, lá nền đất phủ rơm rạ thuần túy hay tre, lá và nền lót dal hay lát xi măng có cửa và sân thông với ao nuôi cá. Một số nông hộ do điều kiện về diện tích đất đai bị hạn chế, nhưng thừa về nguồn vật liệu tre, lá, chuồng vịt có thể được xây dựng dạng sàn ngay trên ao nuôi cá theo qui cách 10 - 15 vịt/m2.
Hình 2: Ao và chuồng trong mô hình nuôi Cá - Vịt kết hợp
b. Ao nuôi cá
Xây dựng hệ thống ao nuôi vịt kết hợp với cá tương tự như hệ thống ao của mô hình cá - heo. Tuy nhiên do điều kiện đặc thù của mô hình, giai đoạn ban đầu của chu kỳ nuôi vịt, vịt nhỏ cần đơặc bảo vệ cũng như hạn chế khả năng khuấy động làm tăng độ đục môi trường nứơc bởi vịt, nguồn thức ăn tự nhiên trong ao bị giảm thấp... Ao nuôi cần phải được ngăn 1/3 diện tích bằng lưới hoặc nẹp tre để giới hạn sự di chuyển của vịt trong ao nuôi.
II. BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MÔ HÌNH CÁ - VỊT
Một số biện pháp kỹ thuật căn bản để ứng dụng vào mô hình nuôi kết hợp vịt - cá đạt hiệu quả cũng được thực hiện tương tự như ở mô hình nuôi cá - heo như: giải pháp chuẩn bị và cải tạo ao nuôi. Bên cạnh đó một số biện pháp kỹ thuật cần lưu tâm thực hiện như sau:
1. Số lượng cá thả nuôi
Số lượng cá thả nuôi trong mô hình tùy thuộc vào số vịt thả nuôi và diện tích mặt nước hiện có trong hệ thống. Kết quả nghiên cứu và thực tiễn sản xuất cho thấy số lượng vịt thả nuôi là 7000 - 8000 con/ha sẽ cung cấp đủ loại phân làm thức ăn trực tiếp và gián tiếp cho cá rô phi với mật độ 1 - 1,5 con/m2.
2. Hỗn hợp cá nuôi trong mô hình
Do hàm lượng dinh dưỡng trong chất thải phân vịt thấp và đặc biệt là khả năng làm thức ăn trực tiếp cho các loài cá nuôi bị hạn chế nên để sử dụng hiệu quả nguồn chất thải này, cần chọn những loài cá nuôi có tính ăn lọc là chủ yếu. Một số loài cá được khuyến cáo nuôi trong hệ thống là:
+ Cá rô phi, cá rô phi toàn đực
+ Cá mè trắng
+ Cá hường
Trong thực tế, xu hướng của nhiều nông hộ là thích nuôi nhiều loài trong cùng một hệ thống. Hỗn hợp loài cá nuôi sau đây có thể được khuyến cáo nuôi trong mô hình là:
+ Cá rô phi 80%
+ Cá chép 10%
+ Các loài cá khác như tra, trôi, tai tượng 10%
3. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Trong trường hợp số lượng cá thả nuôi nhiều hơn 2 con/m2, lượng thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi với các thành phần từ các nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bữ đậu, bèo, tép, ốc, cá tạp hoặc xác vịt chết... được khuyến cáo với khẩu phần dao động từ 3 - 5% so với trọng lượng cá thả nuôi, đồng thời lượng thức ăn bổ sung này sẽ được điều chỉnh qua mỗi tháng nuôi sau khi kiểm tra sức tăng trọng của cá.
4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Hoạt động chăm sóc và quản lý ao nuôi cũng được thực hiện tương tự như ở mô hình nuôi kết hợp cá - heo, hàng ngày theo dõi tình trạng sức khỏe của cá nuôi thông qua hoạt động của chúng ở ao nuôi, đặc biệt vào lúc sáng sớm khi điều kiện oxy trong ao nuôi giảm, cá thường nổi đầu nhưng khi có ánh sáng mát trời, không còn hiện tượng nổi đầu, ngược lại nếu cá tiếp tục nổi đầu, cần có biện pháp cấp nước để cải thiện hàm lượng oxy trong ao nuôi.
5. Thu hoạch
Sau 8 - 10 tháng nuôi, cá đạt kích thước cá thương phẩm, có thể tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, bên cạnh giải pháp thu hoạch toàn bộ sản phẩm ở cuối chu kỳ nuôi, có thể tiến hành thu tỉa thả bù sau khi mô hình thực hiện được ít nhất 6 tháng. Số lượng cá thả bù vào mô hình phải phù hợp với số lượng cá đã thu hoạch, như thế hiệu quả của mô hình nuôi mới được đảm bảo.
I. XÂY DỰNG MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP CÁ - VỊT
1. Chọn ví trí xây dựng mô hình
Hình 1: Một hình thức nuôi vịt phổ biến ở ĐBSCL
Chọn vị trí xây dựng mô hình nuôi gồm: ao và chuồng nuôi vịt cần lưu ý một số điểm như sau:
- Đất thịt không bị nhiễm phèn, có khả năng sử dụng được nguồn nước giếng
- Gần kênh rạch để tiện cho việc cấp nước trong quá trong nuôi
- Hệ thống ao nuôi không nên xây dựng gần nhỡng cây cối tán lớn, tán cây sẽ che bóng mát nước, thiếu ánh sáng, khả năng tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá như thực vật phù du, động vật phù du, động vật đáy... sẽ bị hạn chế. Mặt khác lá cây khi rơi rụng xuống ao cũng có thể làm thối nước trong ao nuôi.
- Gần nhà để tiện lợi cho việc chăm sóc và bảo vệ.
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
a. Chuồng
Tùy theo điều kiện kinh tế gia đình, điều kiện về đất đai, chuồng chăn nuôi vịt có thể được xây dựng bằng tre, lá nền đất phủ rơm rạ thuần túy hay tre, lá và nền lót dal hay lát xi măng có cửa và sân thông với ao nuôi cá. Một số nông hộ do điều kiện về diện tích đất đai bị hạn chế, nhưng thừa về nguồn vật liệu tre, lá, chuồng vịt có thể được xây dựng dạng sàn ngay trên ao nuôi cá theo qui cách 10 - 15 vịt/m2.
Hình 2: Ao và chuồng trong mô hình nuôi Cá - Vịt kết hợp
b. Ao nuôi cá
Xây dựng hệ thống ao nuôi vịt kết hợp với cá tương tự như hệ thống ao của mô hình cá - heo. Tuy nhiên do điều kiện đặc thù của mô hình, giai đoạn ban đầu của chu kỳ nuôi vịt, vịt nhỏ cần đơặc bảo vệ cũng như hạn chế khả năng khuấy động làm tăng độ đục môi trường nứơc bởi vịt, nguồn thức ăn tự nhiên trong ao bị giảm thấp... Ao nuôi cần phải được ngăn 1/3 diện tích bằng lưới hoặc nẹp tre để giới hạn sự di chuyển của vịt trong ao nuôi.
II. BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MÔ HÌNH CÁ - VỊT
Một số biện pháp kỹ thuật căn bản để ứng dụng vào mô hình nuôi kết hợp vịt - cá đạt hiệu quả cũng được thực hiện tương tự như ở mô hình nuôi cá - heo như: giải pháp chuẩn bị và cải tạo ao nuôi. Bên cạnh đó một số biện pháp kỹ thuật cần lưu tâm thực hiện như sau:
1. Số lượng cá thả nuôi
Số lượng cá thả nuôi trong mô hình tùy thuộc vào số vịt thả nuôi và diện tích mặt nước hiện có trong hệ thống. Kết quả nghiên cứu và thực tiễn sản xuất cho thấy số lượng vịt thả nuôi là 7000 - 8000 con/ha sẽ cung cấp đủ loại phân làm thức ăn trực tiếp và gián tiếp cho cá rô phi với mật độ 1 - 1,5 con/m2.
2. Hỗn hợp cá nuôi trong mô hình
Do hàm lượng dinh dưỡng trong chất thải phân vịt thấp và đặc biệt là khả năng làm thức ăn trực tiếp cho các loài cá nuôi bị hạn chế nên để sử dụng hiệu quả nguồn chất thải này, cần chọn những loài cá nuôi có tính ăn lọc là chủ yếu. Một số loài cá được khuyến cáo nuôi trong hệ thống là:
+ Cá rô phi, cá rô phi toàn đực
+ Cá mè trắng
+ Cá hường
Trong thực tế, xu hướng của nhiều nông hộ là thích nuôi nhiều loài trong cùng một hệ thống. Hỗn hợp loài cá nuôi sau đây có thể được khuyến cáo nuôi trong mô hình là:
+ Cá rô phi 80%
+ Cá chép 10%
+ Các loài cá khác như tra, trôi, tai tượng 10%
3. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Trong trường hợp số lượng cá thả nuôi nhiều hơn 2 con/m2, lượng thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi với các thành phần từ các nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bữ đậu, bèo, tép, ốc, cá tạp hoặc xác vịt chết... được khuyến cáo với khẩu phần dao động từ 3 - 5% so với trọng lượng cá thả nuôi, đồng thời lượng thức ăn bổ sung này sẽ được điều chỉnh qua mỗi tháng nuôi sau khi kiểm tra sức tăng trọng của cá.
4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Hoạt động chăm sóc và quản lý ao nuôi cũng được thực hiện tương tự như ở mô hình nuôi kết hợp cá - heo, hàng ngày theo dõi tình trạng sức khỏe của cá nuôi thông qua hoạt động của chúng ở ao nuôi, đặc biệt vào lúc sáng sớm khi điều kiện oxy trong ao nuôi giảm, cá thường nổi đầu nhưng khi có ánh sáng mát trời, không còn hiện tượng nổi đầu, ngược lại nếu cá tiếp tục nổi đầu, cần có biện pháp cấp nước để cải thiện hàm lượng oxy trong ao nuôi.
5. Thu hoạch
Sau 8 - 10 tháng nuôi, cá đạt kích thước cá thương phẩm, có thể tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, bên cạnh giải pháp thu hoạch toàn bộ sản phẩm ở cuối chu kỳ nuôi, có thể tiến hành thu tỉa thả bù sau khi mô hình thực hiện được ít nhất 6 tháng. Số lượng cá thả bù vào mô hình phải phù hợp với số lượng cá đã thu hoạch, như thế hiệu quả của mô hình nuôi mới được đảm bảo.
MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP HEO - CÁ
MÔ HÌNH NUÔI KẾT HỢP HEO - CÁ
I. Xây dựng Ao, chuồng cho hệ thống nuôi kết hợp
1. Chọn lựa vị trí
Hình 1: Mô hình nuôi Heo – Cá kết hợp
Để xây dựng mô hình nuôi gồm: ao và chuồng nuôi heo cần lưu ý một số điểm như sau:
- Đất thịt không bị nhiễm phèn, có khả năng sử dụng được nguồn nước giếng.
- Gần kênh rạch để tiện lợi cho việc cấp nước trong quá trình nuôi.
- Ao và chuồng không nên xây dưng gần những cây lớn, tán cây sẽ che bóng mát, thiếu ánh sáng, nguồn thức ăn tự nhiên cho cá bị giảm, độ ẩm của môi trường nuôi cao ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của heo. Măt khác lá cây rụng xuống cũng có thể làm thối nước trong ao nuôi.
- Gần nhà để tiện lợi cho việc chăm sóc và bảo vệ.
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
a. Chuồng
Tùy theo điều kiện kinh tế gia đình, điều kiện về đất đai, chuồng heo có thể được xây dựng bằng gạch xây ở bờ ao hoặc ván gỗ làm sàn trên ao, nền sàn chuồng phải được gia cố chắc chắn, có thể chia làm nhiều ô nhỏ thành một dãy hoăc hai dãy chuồng theo qui cách 1,6m2 cho 1 heo để có thể nuôi được nhiều lứa heo.
Tùy thuộc vào khả năng xử lý nguồn chất thải từ phần heo, kích thước chuồng và số lượng heo nuôi được xác định cho phù hợp với nhu cầu cung cấp thức ăn trực tiếp và gián tiếp cho cá nuôi. Chuồng phải có dụng cụ cho heo uống nước và máng ăn riêng lẻ. Phía sau mỗi chuồng nên xây một bể chứa phân và nước rửa chuồng heo. Bể chứa sẽ giúp người nuôi chủ động cung cấp thức ăn cho cá, kiểm soát được môi trường nuôi, nước ao không bị bẩn, ô nhiễm, đồng thời người nuôi cũng sử dụng được nguồn phân hữu cơ này để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, rau cải khác được trồng ở bờ khi nguồn phân bị thừa.
b. Ao
Hình 2: Ao nuôi trong mô hình Heo – Cá kết hợp
- Ao có thể được đào lớn hay nhỏ tùy điều kiện của mỗi gia đình, nhưng kích thước tối thiểu là 200m2 mới có thể cung cấp nhu cầu về đạm cho một gia đình. Ao có dạng hình chữ nhật với chiều dài gấp 2 - 3 lần chiều ngang để tiện cho việc đào đắp và đánh bắt cá, mức nước sâu từ 1,5 - 2m.
- Mỗi ao cần có một cống cấp nước để kịp thời cung cấp nước cho ao. Trong trường hợp ao nuôi quá bẩn, đường kính cống 15 - 20 cm, có thể dùng cống xi măng, cống sành hoặc thân tre, dừa để làm cống. Trong quá trình nuôi, cống được bịt lại với bao nylon hay vật liệu khác, không cho nước ao thoát ra bên ngoài.
- Bờ ao phải được gia cố chắc chắn, cỏ và các loại rau màu khác như: rau muống, khoai lang có thể được trồng xung quanh bờ nhằm tránh sụp lở và hạn chế ô nhiễm từ nguồn nước bên ngoài chảy vào ao.
II. BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MÔ HÌNH CÁ - HEO
Để ao nuôi trong mô hình nuôi kết hợp cá - heo đạt đơặc kết quả tốt, một số biện pháp kỹ thuật cần được lưu tâm thực hiện như là:
1. Cải tạo ao nuôi
Ao nuôi trước khi thả cá cần phải được cải tạo cẩn thận tương tư như một ao nuôi cá thâm canh. Các bước thực hiện có thể được tóm tắt như sau:
- Tát cạn ao
- Bắt hết cá dữ, cá tạp và các địch hại khác gây nguy hại cho cá nuôi
- Vét bớt lớp bùn đáy ao còn khoảng 20 - 30cm
- San bằng nền đáy ao
- Tu bổ bờ, lấp hang hốc và dọn cỏ quanh bờ ao
- Rải vôi bột với liều lượng 10 - 15kg/100m2 ao nhằm vệ sinh, khử trùng ao nuôi, hạn chế dịch bệnh.
- Không cần phải bón phân hữu cơ vì trong quá trình nuôi, chất thải từ hệ thống chuồng có thể đủ cung cấp dinh dưỡng cho một ao nuôi trong hệ thống sản xuất kết hợp.
2. Biện pháp kỹ thuật nuôi
a. Số lượng cá thả nuôi
Số lượng cá thả nuôi trong mô hình tùy thuộc nhiều vào số lượng heo nuôi, diện tích mặt nước hiện có. Thực tế nghiên cứu cho thấy với số heo nuôi 2 con/chuồng sẽ cung cấp lượng phân đủ làm thức ăn cho 1 ao nuôi cá có diện tích 200m2 và mật độ thả 2con/m2.
b. Hỗn hợp cá nuôi trong mô hình.
Bên cạnh một số loại cá như cá hường, cá tra... được chọn làm đối tượng nuôi đăng hoặc nuôi hỗn hợp, các loài cá sau đây cũng được nhiều người ứng dụng nuôi đạt kết quả tốt như sau
- Cá rô phi 60% - Mè trắng hoặc cá hường 10%
- Cá chép 10% - Cá tra 10%
- Cá sặc rằn 5% - Cá Trôi Ấn 5%
Hoặc - Cá rô phi 60% - Cá sặc rằn 20%
- Cá hường 10% - Cá chép 10%
- Cá Rô phi 50 %
- Cá Sặc rằn 30 %
- Cá Hường 20 %
c. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Mô hình nuôi kết hặp cá - heo trên nguyên tắc không cần phải sử dụng thức ăn tự bào chế để cung cấp cho cá nuôi. Chất thải từ hệ thống chuồng heo làm nguồn dinh dưỡng chính cho cá nuôi trong mô hình. Trường hợp số lượng cá thả nhiều hơn 2 con/m2, các phụ phế phẩm nông nghiệp như: cám, tấm, bã đậu, khoai mì, cua, ốc sẽ là nguồn cung cấp bổ sung cho ao nuôi. Khẩu phần ăn có thể 3 - 5 % so với trọng lượng cá nuôi và được chia ra làm 2 lần trong ngày.
3. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Hàng ngày cần có thời gian quan sát hoạt động của cá nuôi cũng như tất cả các công trình liên quan đến mô hình nuôi.
Thông thường màu sắc của nước phản ánh sự nghèo giàu nguồn thức ăn tự nhiên trong ao, có thể dựa vào một số đặc điểm căn bản sau để kiểm tra và xử lý kịp thời.
Màu nước ao
ý nghĩa
Màu xanh lá chuối non
Ao tốt, nhiều thức ăn tự nhiên
Không có màu xanh (đục hoặc quá trong)
Ao thiếu thức ăn tự nhiên
Màu xanh đậm và đen
Nước quá bẩn, ngưng bón phân, cần cấp thêm nước mới vào
4. Thu hoạch
- Cá nuôi trong mô hình sau khi được 7 - 8 tháng có thể tiến hành thu hoạch toàn bộ. Khi thu hoạch dùng lưới kéo bắt dần, sau cùng là tát cạn để bắt số cá còn lại, đồng thời tiếp tục cải tạo để chuẩn bị cho vụ nuôi tiếp theo.
- Biện pháp thu tỉa, thả bù cũng là giải pháp hữu ích góp phần cải thiện thu nhập và nhu cầu dinh dưỡng cho người nuôi, hoạt động này có thể được thực hiện sau 4 tháng thả nuôi. Điều cần lưu ý là sau khi thu tỉa, số lượng cá thả bù phải tương ứng với số lượng cá đã thu.
Hình 3: Thu họach cá Sặc rằn và cá Hường
I. Xây dựng Ao, chuồng cho hệ thống nuôi kết hợp
1. Chọn lựa vị trí
Hình 1: Mô hình nuôi Heo – Cá kết hợp
Để xây dựng mô hình nuôi gồm: ao và chuồng nuôi heo cần lưu ý một số điểm như sau:
- Đất thịt không bị nhiễm phèn, có khả năng sử dụng được nguồn nước giếng.
- Gần kênh rạch để tiện lợi cho việc cấp nước trong quá trình nuôi.
- Ao và chuồng không nên xây dưng gần những cây lớn, tán cây sẽ che bóng mát, thiếu ánh sáng, nguồn thức ăn tự nhiên cho cá bị giảm, độ ẩm của môi trường nuôi cao ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của heo. Măt khác lá cây rụng xuống cũng có thể làm thối nước trong ao nuôi.
- Gần nhà để tiện lợi cho việc chăm sóc và bảo vệ.
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
a. Chuồng
Tùy theo điều kiện kinh tế gia đình, điều kiện về đất đai, chuồng heo có thể được xây dựng bằng gạch xây ở bờ ao hoặc ván gỗ làm sàn trên ao, nền sàn chuồng phải được gia cố chắc chắn, có thể chia làm nhiều ô nhỏ thành một dãy hoăc hai dãy chuồng theo qui cách 1,6m2 cho 1 heo để có thể nuôi được nhiều lứa heo.
Tùy thuộc vào khả năng xử lý nguồn chất thải từ phần heo, kích thước chuồng và số lượng heo nuôi được xác định cho phù hợp với nhu cầu cung cấp thức ăn trực tiếp và gián tiếp cho cá nuôi. Chuồng phải có dụng cụ cho heo uống nước và máng ăn riêng lẻ. Phía sau mỗi chuồng nên xây một bể chứa phân và nước rửa chuồng heo. Bể chứa sẽ giúp người nuôi chủ động cung cấp thức ăn cho cá, kiểm soát được môi trường nuôi, nước ao không bị bẩn, ô nhiễm, đồng thời người nuôi cũng sử dụng được nguồn phân hữu cơ này để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, rau cải khác được trồng ở bờ khi nguồn phân bị thừa.
b. Ao
Hình 2: Ao nuôi trong mô hình Heo – Cá kết hợp
- Ao có thể được đào lớn hay nhỏ tùy điều kiện của mỗi gia đình, nhưng kích thước tối thiểu là 200m2 mới có thể cung cấp nhu cầu về đạm cho một gia đình. Ao có dạng hình chữ nhật với chiều dài gấp 2 - 3 lần chiều ngang để tiện cho việc đào đắp và đánh bắt cá, mức nước sâu từ 1,5 - 2m.
- Mỗi ao cần có một cống cấp nước để kịp thời cung cấp nước cho ao. Trong trường hợp ao nuôi quá bẩn, đường kính cống 15 - 20 cm, có thể dùng cống xi măng, cống sành hoặc thân tre, dừa để làm cống. Trong quá trình nuôi, cống được bịt lại với bao nylon hay vật liệu khác, không cho nước ao thoát ra bên ngoài.
- Bờ ao phải được gia cố chắc chắn, cỏ và các loại rau màu khác như: rau muống, khoai lang có thể được trồng xung quanh bờ nhằm tránh sụp lở và hạn chế ô nhiễm từ nguồn nước bên ngoài chảy vào ao.
II. BIỆN PHÁP KỸ THUẬT MÔ HÌNH CÁ - HEO
Để ao nuôi trong mô hình nuôi kết hợp cá - heo đạt đơặc kết quả tốt, một số biện pháp kỹ thuật cần được lưu tâm thực hiện như là:
1. Cải tạo ao nuôi
Ao nuôi trước khi thả cá cần phải được cải tạo cẩn thận tương tư như một ao nuôi cá thâm canh. Các bước thực hiện có thể được tóm tắt như sau:
- Tát cạn ao
- Bắt hết cá dữ, cá tạp và các địch hại khác gây nguy hại cho cá nuôi
- Vét bớt lớp bùn đáy ao còn khoảng 20 - 30cm
- San bằng nền đáy ao
- Tu bổ bờ, lấp hang hốc và dọn cỏ quanh bờ ao
- Rải vôi bột với liều lượng 10 - 15kg/100m2 ao nhằm vệ sinh, khử trùng ao nuôi, hạn chế dịch bệnh.
- Không cần phải bón phân hữu cơ vì trong quá trình nuôi, chất thải từ hệ thống chuồng có thể đủ cung cấp dinh dưỡng cho một ao nuôi trong hệ thống sản xuất kết hợp.
2. Biện pháp kỹ thuật nuôi
a. Số lượng cá thả nuôi
Số lượng cá thả nuôi trong mô hình tùy thuộc nhiều vào số lượng heo nuôi, diện tích mặt nước hiện có. Thực tế nghiên cứu cho thấy với số heo nuôi 2 con/chuồng sẽ cung cấp lượng phân đủ làm thức ăn cho 1 ao nuôi cá có diện tích 200m2 và mật độ thả 2con/m2.
b. Hỗn hợp cá nuôi trong mô hình.
Bên cạnh một số loại cá như cá hường, cá tra... được chọn làm đối tượng nuôi đăng hoặc nuôi hỗn hợp, các loài cá sau đây cũng được nhiều người ứng dụng nuôi đạt kết quả tốt như sau
- Cá rô phi 60% - Mè trắng hoặc cá hường 10%
- Cá chép 10% - Cá tra 10%
- Cá sặc rằn 5% - Cá Trôi Ấn 5%
Hoặc - Cá rô phi 60% - Cá sặc rằn 20%
- Cá hường 10% - Cá chép 10%
- Cá Rô phi 50 %
- Cá Sặc rằn 30 %
- Cá Hường 20 %
c. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Mô hình nuôi kết hặp cá - heo trên nguyên tắc không cần phải sử dụng thức ăn tự bào chế để cung cấp cho cá nuôi. Chất thải từ hệ thống chuồng heo làm nguồn dinh dưỡng chính cho cá nuôi trong mô hình. Trường hợp số lượng cá thả nhiều hơn 2 con/m2, các phụ phế phẩm nông nghiệp như: cám, tấm, bã đậu, khoai mì, cua, ốc sẽ là nguồn cung cấp bổ sung cho ao nuôi. Khẩu phần ăn có thể 3 - 5 % so với trọng lượng cá nuôi và được chia ra làm 2 lần trong ngày.
3. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Hàng ngày cần có thời gian quan sát hoạt động của cá nuôi cũng như tất cả các công trình liên quan đến mô hình nuôi.
Thông thường màu sắc của nước phản ánh sự nghèo giàu nguồn thức ăn tự nhiên trong ao, có thể dựa vào một số đặc điểm căn bản sau để kiểm tra và xử lý kịp thời.
Màu nước ao
ý nghĩa
Màu xanh lá chuối non
Ao tốt, nhiều thức ăn tự nhiên
Không có màu xanh (đục hoặc quá trong)
Ao thiếu thức ăn tự nhiên
Màu xanh đậm và đen
Nước quá bẩn, ngưng bón phân, cần cấp thêm nước mới vào
4. Thu hoạch
- Cá nuôi trong mô hình sau khi được 7 - 8 tháng có thể tiến hành thu hoạch toàn bộ. Khi thu hoạch dùng lưới kéo bắt dần, sau cùng là tát cạn để bắt số cá còn lại, đồng thời tiếp tục cải tạo để chuẩn bị cho vụ nuôi tiếp theo.
- Biện pháp thu tỉa, thả bù cũng là giải pháp hữu ích góp phần cải thiện thu nhập và nhu cầu dinh dưỡng cho người nuôi, hoạt động này có thể được thực hiện sau 4 tháng thả nuôi. Điều cần lưu ý là sau khi thu tỉa, số lượng cá thả bù phải tương ứng với số lượng cá đã thu.
Hình 3: Thu họach cá Sặc rằn và cá Hường
NUÔI GHÉP CÁ TRONG MƯƠNG VƯỜN
Chương 5
NUÔI GHÉP CÁ TRONG MƯƠNG VƯỜN
I. GIỚI THIỆU
Hình 1: Mương vườn sử dụng nuôi cá trong hệ thống kết hợp
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu phát triển về mức độ và tính bền vững của các hệ thống nuôi cá nông hộ là nhu cầu cấp thiết cho người dân vùng Đồng bằng sông Cửu long. Bởi vì, thu nhập của nông hộ sẽ được cải thiện khi tham gia những mô hình sản xuất này. Theo Lê Như Xuân, 1994 - 1995, có khoảng 20 - 40 % diện tích mặt nước của hệ thống mương vườn chưa được sử dụng, vì vậy nông dân có thể sử dụng diện tích mặt nước này để nuôi cá, bên cạnh đó người dân cũng có thể cũng sử dụng phục vụ cho việc trồng trọt, vì thế lợi ích sẽ tăng lên với sự tham gia nuôi cá trong một hệ thống canh tác.
Dựa trên cơ sở những ý tưởng trên, cần thiết lập chương trình nghiên cứu tính hiệu quả của việc mở rộng mô hình nuôi cá trong hệ thống mương vườn tại vùng Đồng bằng sông Cửu long.
Nội dung nghiên cứu bao gồm
Khảo sát những đặc điểm và sự ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng nước trong hệ thống.
Đánh giá cơ bản hiệu quả nuôi cá trong hệ thống mương vườn.
Đánh giá tỷ lệ sinh trưởng cá nuôi trong hệ thống.
Xác định hiệu quả kinh tế của mô hình cho người nông dân vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu long.
II. Thực nghiệm xây dựng mô hình nuôi
1.1. Các loài cá thí nghiệm
- Rô Phi.
- Mè Vinh.
- Cá Chép.
1.2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện tại Vườn cây ăn quả thực nhiệm của Bộ môn Khoa hoc Cây trồng - Khoa Nông nghiệp - Trường Đại Học Cần Thơ. Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức với mật độ cá nuôi khác nhau 1con/m2, 3 con/m2 and 5 con/m2. Tỷ lệ ghép của ba loài cá trên trong hệ thống nuôi là:
+ Rô Phi: 60 %.
+ Mè Vinh : 30 %.
+ Cá Chép : 10 %
1.3. Quản lý thí nghiệm
v Mương vườn thí nghiệm
Hệ thống mương vườn phục vụ thực nghiệm gồm 9 mương có diện tích 110m2/mương, độ sâu mực nước từ 0.8 - 1m được duy trì trong suốt quá trình thực nghiệm Mương được nạo vét, tát cạn và bón vôi với lượng 10 kg/100 m2, phơi khô 3 ngày trước khi cấp nước vào mương. Bón phân gây màu nước trước khi thả cá 3 ngày với lượng Ure 75 kg/ha và 90 kg/ha DAP.
Hình 2: Cá nuôi trong hệ thống mương vườn
v Thức ăn và tỷ lệ cho ăn
Trong quá trình thí nghiệm, thức ăn cung cấp cho cá là sản phẩm từ nông nghiệp như: cám, tấm, bèo tấm, rau muống, bã đậu nành,... với công thức như sau: cám hoặc tấm (60%); bã đậu nành (20%); bèo tấm hoặc rau muống (20%). Khẩu phần ăn là: 3 - 5%/tổng trọng lượng cá /ngày và tần số cho ăn là 2 lần/ngày. Lượng thức ăn được điều chỉnh hàng tháng theo sự tăng trọng của cá.
2. Chất lượng môi trường nước
+ Các chỉ tiêu theo dõi môi trường nước được theo dõi như: Hàm lượng ô xy hòa tan (DO), độ trong (cm), nhiệt độ nước (oC), và một số chỉ tiêu khác như: pH, N-NH4+, P-PO43-, H2S và COD được thu và phân tích 2 tuần/lần.
+ Năng suất sinh học được đánh giá 1 lần/tuần bởi mẫu thu tại 3 thời điểm khác nhau trong ngày, theo phương pháp của Mc. Connel 1962.
P =
[O2(tnu2) - O2(tnu1)] +
O2 (tnu1) - O2(tnue)
X24
N
Thời điểm thu mẩu
tnu1: Sau khi mặt trời lặn.
tnu2: Trước khi mặt trời lặn (24 giờ sau lần đo đầu tiên ).
tnue: Trước khi mặt trời mọc.
N: Khỏang thời gian giữa lần thu tnu1 và tnue.
P: Năng suất sinh học (gO2/m3/ngày)
3. Đánh giá sự tăng trưởng của cá
Mẩu cá được thu để khảo sát sự tăng trọng và tăng trưởng chiều dài của cá hàng tháng. Năng suất và tỷ lệ sống được tính toán khi kết thúc thí nghiệm. Các chỉ tiêu tăng trưởng đặc biệt (SGR %), tăng trọng ngày (W) và phần trăm tăng trọng (WG %) theo phương pháp của Gunk và Robs (1982).
Tăng trọng ngày (g/ngày) =
Trọng lượng cuối Wt - Trọng lượng đầu Wt
Thời gian (Ngày)
Tốc độ tăng trưởng (%/day) =
Ln W2 - Ln W1
X100
Thời gian
Phần trăm tăng trọng (%) =
Trọng lượng cuối Wt - Trọng lượng đầu Wt
X100
Trọng lượng đầu Wt
4. Phân tích kết quả thu nhập của nông hộ sau thí nghiệm
Dựa trên những dẩn liệu thu thu thập được từ thí nghiệm sẻ tính toán tổng chi phí đầu tư vào hệ thống nuôi và năng suất cá nuôi thu hoạch được từ mô hình bán ra thị trường sẻ cho biết tổng thu nhập và lợi nhuận thu được của nông hộ từ mô hình nuôi.
5. Phân tích số liệu
Các số liệu thu thập được phân tích và đánh giá sự khác nhau giữa các nghiệûm thức bằng phần mềm Statgaraphics và Excel verson 6.0
III. KẾT QUẢ
1. Tăng trưởng của cá nuôi
Số liệu về tăng trọng của cá được tổng hợp qua bảng 1
Loài cá
Rô Phi
Mè Vinh
Cá Chép
Nghiệm thức
I
II
III
I
II
III
I
II
III
Chỉ tiêu theo dõi
Trọng lượng ban đầu (g/cá)
1.68
1.68
1.68
1.27
1.27
1.27
1.50
1.50
1.50
Trọng lượng cá sau 90 ngày (g/cá)
42.76
33.15
18.47
20.43
19.67
19.73
100.5
34.91
21.88
Tăng trọng ngày (g/day)
0.46
0.35
0.19
0.21
0.20
0.20
1.10
0.37
0.23
Tăng trưởng đặc biệt (%/day)
3.91
3.62
2.97
3.08
3.04
3.05
4.67
3.5
2.98
Phần trăm tăng trọng (%)
3266.8
2510.
1354.1
1115.8
1071.0
836.04
6604.
2227.4
1358
Tỷ lệ sống (%)
75.9
81.2
79.3
64.7
72.5
67.8
88.7
86.4
79.2
Bảng 1: Sự tăng trọng của 3 loài cá trong hệ thống nuôi ghép cá muơng vườn
* Sự tăng trọng của cá Mè Vinh
Thực nghiệm cho thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa về sự tăng trong của cá Mè Vinh giữa 3 nghiệm thức:
- Tăng trọng ngày (g/ngày): 0.21 nghiệm thức I.
0.20 nghiệm thức II.
0.19 nghiệm thức III.
- Tăng trưởng đặc biệt (%/ngày): 3.08 nghiệm thức I.
3.04 nghiệm thức II.
3.05 nghiệm thức III.
* Sự tăng trọng của cá Chép và Rô Phi
Đối với cá Chép và Rô Phi sự tăng trưởng của cá có sự khác nhau có ý nghĩa ở mức độ P<0.05 giữa 3 nghiệm thức về các chỉ tiêu Tăng trọng ngày và Tăng trưởng đặc biệt. Nhận thấy rằng, tốc độ tăng trưởng ngày (g/ngày) và tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) ở nghiệm thức I cao hơn so với nghiệm II và III.
2. Năng suất cá nuôi trong hệ thống thực nghiệm
Loài cá
Rô Phi
(kg)
Mè Vinh
(kg)
Chép
(kg)
Năng suất
(kg/mương)
Năng suất
(kg/ha)
Nghiệm thức I
7.05
2.48
5.35
8.88
740
Nghiệm thức II
3.42
2.47
13.18
19.07
1589
Nghiệm thức III
4.26
2.35
6.51
13.12
1093
Bảng 2: Năng suất cá nuôi trong hệ thống thực nghiệm
Kết thúc thí nghiệm, năng suất cá nuôi ở 3 nghiệm thức có sự khác nhau rỏ rệt khi phân tích thống kê cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa ở mức độ P<0.05. Năng suất trung bình 1589 kg/ha quan sát được ỏ nghiệm thức II là cao nhất, trong khi đó năng suất thấp nhất là 740 kg/ha ghi nhận được ở nghiệm thức I.
2. Các yếu tố môi trường nước
2.1. Các chỉ tiêu thủy lý môi trường nước
Nhiệt độ nước (oC) trong hệ thống nuôi dao động từ 24.1 - 29.4oC.
Độ trong (cm) trong hệ thống nuôi dao động từ 24.6 - 42.7.
pH nước trong hệ thống nuôi dao động từ: 6 - 7.2.
Các giá trị yếu tố thủy lý của môi trường nước thu thập được không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá trong hệ thống nuôi.
2.2. Các chỉ tiêu thủy hóa môi trường nước
+ N-NH4+ (ppm)
Đồ thị 1: Sự biến động N-NH4+ hòa tan trong quá trình thí nghiệm (ppm)
Kết quả cho thấy, hàm lượng N-NH4+ (ppm) thay đổi từ 0.05 - 0.8 ppm. Sự biến đổi này không ảnh hưởng nhiều đến cá nuôi.
+ P-PO43- (ppm)
Đồ thị 2: Sự niến đổi P-PO43- hòa tan trong quá trình thí nghiệm (ppm)
Nhận thấy rằng, hàm lượng P-PO43- hoà tan giữa 3 nghiệm thức sai khác không có ý nghĩa. Trong hệ thống nuôi hàm lượng P-PO43- dao động cao từ : 0.12 - 0.30 ppm.
+ COD (ppm)
Qua phân tích thống kê thấy rằng có sự sai khác có ý nghĩa ở P<0.05 của hàm lượng COD giữa 3 nghiệm thức và trong hệ thống nuôi hàm lượng COD dao động từ 4ppm - 25.36ppm.
+ H2S (ppm)
Sự biến đổi hàm lượng H2S hòa tan rất cao trong hệ thống thí nghiệm, dao động từ 0.01 - 0.34ppm. Tuy nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 3 nghiệm thức. Sự biến đổi này không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá nuôi.
3. Phiêu sinh vật
3.1. Phiêu sinh thực vật
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Tế bào/l
Số loài
Tế bào/l
Số loài
Tế bào/l
Cyanophyta
7
148.100
7
151.200
6
147.900
Bacillariophyta
10
27.300
10
26.900
6
27.600
Euglenophyta
14
71.400
12
84.500
17
24.600
Chlorophyta
7
70.500
7
66.400
9
76.500
Bảng 3: Sinh khối phiêu sinh thực vật (tế bào/l) trong hệ thống thí nghiệm
Số liệu trên cho thấy không có sự khác nhau về thành phần loài và sinh khối của phiêu sinh thực vật giữa 3 nghiệm thức trong hệ thống thí nghiệm.
3.2. Phiêu sinh động vật
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Cá thể/m3
Số loài
Cá thể/m3
Số loài
Cá thể/m3
Protozoa
7
74.118
7
87.643
7
78.475
Rotatoria
10
876.615
12
571.246
12
596.282
Cladocera
4
134.353
4
127.026
6
127.134
Copepoda
8
224.373
6
197.351
7
174.155
Nauplius
1
481.992
1
458.487
1
50.148
Bảng 4: Sinh khối phiêu sinh thực vật (cá thể/m3) trong hệ thống thí nghiệm
Kết quả cho thấy sinh khối của Rotatoria so với những phiêu sinh động vật khác có trong hệ thống thí nghiệm cao hơn hẳn. Sinh khối Rotatoria thay đổi từ 571,246 - 876,615 cá thể/m3.
3.3. Động vật đáy
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Cá thể/m2
Số loài
Cá thể/m2
Số loài
Cá thể/m2
Oligochaeta
3
19.68
3
21.26
3
26.18
Poligochaeta
1
14.4
0
0.00
0
0.00
Gastropoda
6
61.33
6
52.00
6
43.00
Bivalvia
2
12.0
2
13.20
2
14.18
Inserta larvae
1
30.0
1
19.20
1
14.00
Bảng 5: Sinh khối động vật đáy (cá thể/m2) trong hệ thống thí nghiệm
Kết quả cho thấy sinh khối của Olygochaeta và Gastropoda so với những phiêu sinh động vật khác có trong hệ thống thí nghiệm cao hơn hẳn. There were domination of the biomass of through out the experiment in the system. Sinh khối Olygochaeta dao động từ 19.68 - 26.18 cá thể/m2, trong khi đó sinh khối Gastropoda dao động từ 43.00 - 61.33 cá thể/m2.
4. Năng suất sinh học
Đồ thị 3: Năng suất sinh học trong hệ thống thí nghiệm (grO2/m3/ngày)
Không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê của năng suất sinh học giữa 3 nghiệm thức. Năng suất sinh học trong hệ thống nuôi dao động từ 8.67 - 9.33gO2/m3/ngày. Theo Vinberg, 1960, thì những thông số này cho thấy hoàn toàn phù hợp cho sự phát triển của cá nuôi trong mô hình thực nghiệm.
1. Phân tích hiệu quả thu nhập của nông hộ
Nghiệm thức
Mật độ (con/m2)
Hạng mục
I (1 con/m2)
II (3 con/m2)
III (5 con/m2)
Tổng đầu tư
72,706VND
107,801VND
183,535VND
Tổng thu
86,669VND
179,515VND
126,085VND
Lợi nhuận/mương
13,963VND
71,714VND
-57,450VND
Lợi nhuận/ha
1,163,583VND
5,976,167VND
-487,500VND
Hiệu suất đồng vốn
0,19
0,67
-0,31
Bảng 6: Phân tích thu nhập nông hộ
Qua bảng trên cho thấy, lợi nhuận thu được sau khi thu hoạch từ hệ thống thí nghiệm có giá trị cao nhất từ nghiệm thức II là 5,976,167VND/ha và thấp nhất ghi nhận được từ nghiệm thức III là 487,500VND/ha.
IV. KẾT LUẬN
1. Các yếu tố chất lượng môi trường nước của hệ thống mương vườn thí nghiệm như: DO, pH, nhiệt độ, N-NH4, P-PO43-, H2S, COD... phù hợp cho sự sinh trưởng của cá trong mô hình nuôi.
2. Năng suất sinh học dao động từ 8.67 - 8.33gO2/m3/ngày thuận lợi cho sự phát triển và tăng trưởng của cá nuôi.
3. Trong mô hình thí nghiệm, năng suất thu thu được là 1589 kg/ha ở nghiệm thức II là cao nhất. Vì vậy, từ mô hình sản xuất này có thể áp dụng rộng rãi cho nông dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là rất cần thiết, do hiệu quả kinh tế từ mô hình này sẻ cải thiện thu nhập cho người nông khi tham gia hoạt động sản xuất với mô hình trên.
Hình 3: Thu hoạch cá rô phi trong hệ thống mương vườn
NUÔI GHÉP CÁ TRONG MƯƠNG VƯỜN
I. GIỚI THIỆU
Hình 1: Mương vườn sử dụng nuôi cá trong hệ thống kết hợp
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu phát triển về mức độ và tính bền vững của các hệ thống nuôi cá nông hộ là nhu cầu cấp thiết cho người dân vùng Đồng bằng sông Cửu long. Bởi vì, thu nhập của nông hộ sẽ được cải thiện khi tham gia những mô hình sản xuất này. Theo Lê Như Xuân, 1994 - 1995, có khoảng 20 - 40 % diện tích mặt nước của hệ thống mương vườn chưa được sử dụng, vì vậy nông dân có thể sử dụng diện tích mặt nước này để nuôi cá, bên cạnh đó người dân cũng có thể cũng sử dụng phục vụ cho việc trồng trọt, vì thế lợi ích sẽ tăng lên với sự tham gia nuôi cá trong một hệ thống canh tác.
Dựa trên cơ sở những ý tưởng trên, cần thiết lập chương trình nghiên cứu tính hiệu quả của việc mở rộng mô hình nuôi cá trong hệ thống mương vườn tại vùng Đồng bằng sông Cửu long.
Nội dung nghiên cứu bao gồm
Khảo sát những đặc điểm và sự ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng nước trong hệ thống.
Đánh giá cơ bản hiệu quả nuôi cá trong hệ thống mương vườn.
Đánh giá tỷ lệ sinh trưởng cá nuôi trong hệ thống.
Xác định hiệu quả kinh tế của mô hình cho người nông dân vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu long.
II. Thực nghiệm xây dựng mô hình nuôi
1.1. Các loài cá thí nghiệm
- Rô Phi.
- Mè Vinh.
- Cá Chép.
1.2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện tại Vườn cây ăn quả thực nhiệm của Bộ môn Khoa hoc Cây trồng - Khoa Nông nghiệp - Trường Đại Học Cần Thơ. Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức với mật độ cá nuôi khác nhau 1con/m2, 3 con/m2 and 5 con/m2. Tỷ lệ ghép của ba loài cá trên trong hệ thống nuôi là:
+ Rô Phi: 60 %.
+ Mè Vinh : 30 %.
+ Cá Chép : 10 %
1.3. Quản lý thí nghiệm
v Mương vườn thí nghiệm
Hệ thống mương vườn phục vụ thực nghiệm gồm 9 mương có diện tích 110m2/mương, độ sâu mực nước từ 0.8 - 1m được duy trì trong suốt quá trình thực nghiệm Mương được nạo vét, tát cạn và bón vôi với lượng 10 kg/100 m2, phơi khô 3 ngày trước khi cấp nước vào mương. Bón phân gây màu nước trước khi thả cá 3 ngày với lượng Ure 75 kg/ha và 90 kg/ha DAP.
Hình 2: Cá nuôi trong hệ thống mương vườn
v Thức ăn và tỷ lệ cho ăn
Trong quá trình thí nghiệm, thức ăn cung cấp cho cá là sản phẩm từ nông nghiệp như: cám, tấm, bèo tấm, rau muống, bã đậu nành,... với công thức như sau: cám hoặc tấm (60%); bã đậu nành (20%); bèo tấm hoặc rau muống (20%). Khẩu phần ăn là: 3 - 5%/tổng trọng lượng cá /ngày và tần số cho ăn là 2 lần/ngày. Lượng thức ăn được điều chỉnh hàng tháng theo sự tăng trọng của cá.
2. Chất lượng môi trường nước
+ Các chỉ tiêu theo dõi môi trường nước được theo dõi như: Hàm lượng ô xy hòa tan (DO), độ trong (cm), nhiệt độ nước (oC), và một số chỉ tiêu khác như: pH, N-NH4+, P-PO43-, H2S và COD được thu và phân tích 2 tuần/lần.
+ Năng suất sinh học được đánh giá 1 lần/tuần bởi mẫu thu tại 3 thời điểm khác nhau trong ngày, theo phương pháp của Mc. Connel 1962.
P =
[O2(tnu2) - O2(tnu1)] +
O2 (tnu1) - O2(tnue)
X24
N
Thời điểm thu mẩu
tnu1: Sau khi mặt trời lặn.
tnu2: Trước khi mặt trời lặn (24 giờ sau lần đo đầu tiên ).
tnue: Trước khi mặt trời mọc.
N: Khỏang thời gian giữa lần thu tnu1 và tnue.
P: Năng suất sinh học (gO2/m3/ngày)
3. Đánh giá sự tăng trưởng của cá
Mẩu cá được thu để khảo sát sự tăng trọng và tăng trưởng chiều dài của cá hàng tháng. Năng suất và tỷ lệ sống được tính toán khi kết thúc thí nghiệm. Các chỉ tiêu tăng trưởng đặc biệt (SGR %), tăng trọng ngày (W) và phần trăm tăng trọng (WG %) theo phương pháp của Gunk và Robs (1982).
Tăng trọng ngày (g/ngày) =
Trọng lượng cuối Wt - Trọng lượng đầu Wt
Thời gian (Ngày)
Tốc độ tăng trưởng (%/day) =
Ln W2 - Ln W1
X100
Thời gian
Phần trăm tăng trọng (%) =
Trọng lượng cuối Wt - Trọng lượng đầu Wt
X100
Trọng lượng đầu Wt
4. Phân tích kết quả thu nhập của nông hộ sau thí nghiệm
Dựa trên những dẩn liệu thu thu thập được từ thí nghiệm sẻ tính toán tổng chi phí đầu tư vào hệ thống nuôi và năng suất cá nuôi thu hoạch được từ mô hình bán ra thị trường sẻ cho biết tổng thu nhập và lợi nhuận thu được của nông hộ từ mô hình nuôi.
5. Phân tích số liệu
Các số liệu thu thập được phân tích và đánh giá sự khác nhau giữa các nghiệûm thức bằng phần mềm Statgaraphics và Excel verson 6.0
III. KẾT QUẢ
1. Tăng trưởng của cá nuôi
Số liệu về tăng trọng của cá được tổng hợp qua bảng 1
Loài cá
Rô Phi
Mè Vinh
Cá Chép
Nghiệm thức
I
II
III
I
II
III
I
II
III
Chỉ tiêu theo dõi
Trọng lượng ban đầu (g/cá)
1.68
1.68
1.68
1.27
1.27
1.27
1.50
1.50
1.50
Trọng lượng cá sau 90 ngày (g/cá)
42.76
33.15
18.47
20.43
19.67
19.73
100.5
34.91
21.88
Tăng trọng ngày (g/day)
0.46
0.35
0.19
0.21
0.20
0.20
1.10
0.37
0.23
Tăng trưởng đặc biệt (%/day)
3.91
3.62
2.97
3.08
3.04
3.05
4.67
3.5
2.98
Phần trăm tăng trọng (%)
3266.8
2510.
1354.1
1115.8
1071.0
836.04
6604.
2227.4
1358
Tỷ lệ sống (%)
75.9
81.2
79.3
64.7
72.5
67.8
88.7
86.4
79.2
Bảng 1: Sự tăng trọng của 3 loài cá trong hệ thống nuôi ghép cá muơng vườn
* Sự tăng trọng của cá Mè Vinh
Thực nghiệm cho thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa về sự tăng trong của cá Mè Vinh giữa 3 nghiệm thức:
- Tăng trọng ngày (g/ngày): 0.21 nghiệm thức I.
0.20 nghiệm thức II.
0.19 nghiệm thức III.
- Tăng trưởng đặc biệt (%/ngày): 3.08 nghiệm thức I.
3.04 nghiệm thức II.
3.05 nghiệm thức III.
* Sự tăng trọng của cá Chép và Rô Phi
Đối với cá Chép và Rô Phi sự tăng trưởng của cá có sự khác nhau có ý nghĩa ở mức độ P<0.05 giữa 3 nghiệm thức về các chỉ tiêu Tăng trọng ngày và Tăng trưởng đặc biệt. Nhận thấy rằng, tốc độ tăng trưởng ngày (g/ngày) và tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) ở nghiệm thức I cao hơn so với nghiệm II và III.
2. Năng suất cá nuôi trong hệ thống thực nghiệm
Loài cá
Rô Phi
(kg)
Mè Vinh
(kg)
Chép
(kg)
Năng suất
(kg/mương)
Năng suất
(kg/ha)
Nghiệm thức I
7.05
2.48
5.35
8.88
740
Nghiệm thức II
3.42
2.47
13.18
19.07
1589
Nghiệm thức III
4.26
2.35
6.51
13.12
1093
Bảng 2: Năng suất cá nuôi trong hệ thống thực nghiệm
Kết thúc thí nghiệm, năng suất cá nuôi ở 3 nghiệm thức có sự khác nhau rỏ rệt khi phân tích thống kê cho thấy có sự sai khác có ý nghĩa ở mức độ P<0.05. Năng suất trung bình 1589 kg/ha quan sát được ỏ nghiệm thức II là cao nhất, trong khi đó năng suất thấp nhất là 740 kg/ha ghi nhận được ở nghiệm thức I.
2. Các yếu tố môi trường nước
2.1. Các chỉ tiêu thủy lý môi trường nước
Nhiệt độ nước (oC) trong hệ thống nuôi dao động từ 24.1 - 29.4oC.
Độ trong (cm) trong hệ thống nuôi dao động từ 24.6 - 42.7.
pH nước trong hệ thống nuôi dao động từ: 6 - 7.2.
Các giá trị yếu tố thủy lý của môi trường nước thu thập được không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá trong hệ thống nuôi.
2.2. Các chỉ tiêu thủy hóa môi trường nước
+ N-NH4+ (ppm)
Đồ thị 1: Sự biến động N-NH4+ hòa tan trong quá trình thí nghiệm (ppm)
Kết quả cho thấy, hàm lượng N-NH4+ (ppm) thay đổi từ 0.05 - 0.8 ppm. Sự biến đổi này không ảnh hưởng nhiều đến cá nuôi.
+ P-PO43- (ppm)
Đồ thị 2: Sự niến đổi P-PO43- hòa tan trong quá trình thí nghiệm (ppm)
Nhận thấy rằng, hàm lượng P-PO43- hoà tan giữa 3 nghiệm thức sai khác không có ý nghĩa. Trong hệ thống nuôi hàm lượng P-PO43- dao động cao từ : 0.12 - 0.30 ppm.
+ COD (ppm)
Qua phân tích thống kê thấy rằng có sự sai khác có ý nghĩa ở P<0.05 của hàm lượng COD giữa 3 nghiệm thức và trong hệ thống nuôi hàm lượng COD dao động từ 4ppm - 25.36ppm.
+ H2S (ppm)
Sự biến đổi hàm lượng H2S hòa tan rất cao trong hệ thống thí nghiệm, dao động từ 0.01 - 0.34ppm. Tuy nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 3 nghiệm thức. Sự biến đổi này không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá nuôi.
3. Phiêu sinh vật
3.1. Phiêu sinh thực vật
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Tế bào/l
Số loài
Tế bào/l
Số loài
Tế bào/l
Cyanophyta
7
148.100
7
151.200
6
147.900
Bacillariophyta
10
27.300
10
26.900
6
27.600
Euglenophyta
14
71.400
12
84.500
17
24.600
Chlorophyta
7
70.500
7
66.400
9
76.500
Bảng 3: Sinh khối phiêu sinh thực vật (tế bào/l) trong hệ thống thí nghiệm
Số liệu trên cho thấy không có sự khác nhau về thành phần loài và sinh khối của phiêu sinh thực vật giữa 3 nghiệm thức trong hệ thống thí nghiệm.
3.2. Phiêu sinh động vật
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Cá thể/m3
Số loài
Cá thể/m3
Số loài
Cá thể/m3
Protozoa
7
74.118
7
87.643
7
78.475
Rotatoria
10
876.615
12
571.246
12
596.282
Cladocera
4
134.353
4
127.026
6
127.134
Copepoda
8
224.373
6
197.351
7
174.155
Nauplius
1
481.992
1
458.487
1
50.148
Bảng 4: Sinh khối phiêu sinh thực vật (cá thể/m3) trong hệ thống thí nghiệm
Kết quả cho thấy sinh khối của Rotatoria so với những phiêu sinh động vật khác có trong hệ thống thí nghiệm cao hơn hẳn. Sinh khối Rotatoria thay đổi từ 571,246 - 876,615 cá thể/m3.
3.3. Động vật đáy
Nghiệm thức
I
(1 con/m2)
II
(3 con/m2)
III
(5 con/m2)
Phân loại
Số loài
Cá thể/m2
Số loài
Cá thể/m2
Số loài
Cá thể/m2
Oligochaeta
3
19.68
3
21.26
3
26.18
Poligochaeta
1
14.4
0
0.00
0
0.00
Gastropoda
6
61.33
6
52.00
6
43.00
Bivalvia
2
12.0
2
13.20
2
14.18
Inserta larvae
1
30.0
1
19.20
1
14.00
Bảng 5: Sinh khối động vật đáy (cá thể/m2) trong hệ thống thí nghiệm
Kết quả cho thấy sinh khối của Olygochaeta và Gastropoda so với những phiêu sinh động vật khác có trong hệ thống thí nghiệm cao hơn hẳn. There were domination of the biomass of through out the experiment in the system. Sinh khối Olygochaeta dao động từ 19.68 - 26.18 cá thể/m2, trong khi đó sinh khối Gastropoda dao động từ 43.00 - 61.33 cá thể/m2.
4. Năng suất sinh học
Đồ thị 3: Năng suất sinh học trong hệ thống thí nghiệm (grO2/m3/ngày)
Không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê của năng suất sinh học giữa 3 nghiệm thức. Năng suất sinh học trong hệ thống nuôi dao động từ 8.67 - 9.33gO2/m3/ngày. Theo Vinberg, 1960, thì những thông số này cho thấy hoàn toàn phù hợp cho sự phát triển của cá nuôi trong mô hình thực nghiệm.
1. Phân tích hiệu quả thu nhập của nông hộ
Nghiệm thức
Mật độ (con/m2)
Hạng mục
I (1 con/m2)
II (3 con/m2)
III (5 con/m2)
Tổng đầu tư
72,706VND
107,801VND
183,535VND
Tổng thu
86,669VND
179,515VND
126,085VND
Lợi nhuận/mương
13,963VND
71,714VND
-57,450VND
Lợi nhuận/ha
1,163,583VND
5,976,167VND
-487,500VND
Hiệu suất đồng vốn
0,19
0,67
-0,31
Bảng 6: Phân tích thu nhập nông hộ
Qua bảng trên cho thấy, lợi nhuận thu được sau khi thu hoạch từ hệ thống thí nghiệm có giá trị cao nhất từ nghiệm thức II là 5,976,167VND/ha và thấp nhất ghi nhận được từ nghiệm thức III là 487,500VND/ha.
IV. KẾT LUẬN
1. Các yếu tố chất lượng môi trường nước của hệ thống mương vườn thí nghiệm như: DO, pH, nhiệt độ, N-NH4, P-PO43-, H2S, COD... phù hợp cho sự sinh trưởng của cá trong mô hình nuôi.
2. Năng suất sinh học dao động từ 8.67 - 8.33gO2/m3/ngày thuận lợi cho sự phát triển và tăng trưởng của cá nuôi.
3. Trong mô hình thí nghiệm, năng suất thu thu được là 1589 kg/ha ở nghiệm thức II là cao nhất. Vì vậy, từ mô hình sản xuất này có thể áp dụng rộng rãi cho nông dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là rất cần thiết, do hiệu quả kinh tế từ mô hình này sẻ cải thiện thu nhập cho người nông khi tham gia hoạt động sản xuất với mô hình trên.
Hình 3: Thu hoạch cá rô phi trong hệ thống mương vườn
MÔ HÌNH NUÔI GÀ – CÁ KẾT HỢP
MÔ HÌNH NUÔI GÀ – CÁ KẾT HỢP
I. XÂY DỰNG MÔ HÌNH NUÔI CÁ - GÀ KẾT HỢP
1. Chọn vị trí xây dựng mô hình
Những điểm cần lưu ý để chọn vị trí xây dựng mô hình nuôi kết hặp cá - gà được xác định tượng tự như hệ thống nuôi cá- vịt kết hợp hoặc cá - heo .
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
Hệ thống chuồng và ao cho mô hình nuôi kết hợp cá - gà nhìn chung có thể được thực hiện tương tự như mô hình nuôi cá vịt. Điểm khác biệt giữa hai mô hình là phần sân thoáng rộng, tạo điều kiện cho vịt thoạt động hướng về phiá bờ ao, ngược lại nuôi cá mô hình cá- gà thì khu vực này hướng về phía đất liền, đồng thợi sàn chuồng phải có đủ độ cao để bảo vệ sức khỏe gà do ảnh hưởng từ độ ẩm môi trường. Thông thường chuồng được xây dựng theo qui cách 8 con/m2.
II. BIẾN PHÁP KỸ THUẬT NUÔI MÔ HÌNH CÁ - GÀ
1. Số lượng cá thả nuôi
Cũng như mô hình nuôi kết hặp cá - vịt hoặc cá heo, số lượng cá thả ở mô hình nuôi cá - gà tùy thuộc vào số lượng gà thả nuôi và diện tích mặt nước hiện có ở hệ thống. Thực tiễn nghiên cứu và sản xuất cho thấy mật độ gà thả nuôi là 4500 - 5000 con/ha sẽ cung cấp đủ lượng phân có thể làm nguồn thức ăn trực tiếp cho cá rô phi nuôi trong hệ thống với mật độ thả là 1,6 - 2 con/m2.
2. Hỗn hợp các loài cá thả nuôi trong mô hình
Bên cạnh loài cá rô phi được khuyến cáo là đối tượng nuôi chính trong mô hình, với phương thức nuôi ghép mà tập quán người dân ở vùng ĐBSCL ưa thích, loài và tỉ lệ ghép giữa các loài nuôi có thể được khuyến cáo như sau
· Cá rô phi 70%
· Cá lóc 20%
· Cá chép hay cá hường 10%
Hoặc
· Cá rô phi 70%
· Cá trê lai 20%
· Cá chép hoặc cá hường 10%
3. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Cũng như các mô hình cá - heo và cá vịt, trong trường hợp cá thả nuôi nhiều hơn 1,6 - 2 con/m2 hoặc ao nuôi được đầu tư khai thác như một dạng nuôi thâm canh thông thường với các đối tượng như rô phi, trê lai, lóc... lúc này thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến từ các phụ phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bột cá, cá tạp và vitamine... phải được bổ sung ngày 2 lần với khẩu phần từ 3 - 5 % so với trọng lượng cá thả nuôi, đồng thời lượng thức ăn này cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự tăng trọng của cá nuôi trong mô hình sau mỗi tháng kiểm tra.
4. Chăm sóc và quản lý mô hình
Hoạt động chăm sóc và quản lý mô hình nuôi tương tự như ở mô hình nuôi cá - vịt. Tuy nhiên do chất lượng dinh dưỡng ở chất thải gà cao rất dễ làm ô nhiễm môi trường nuôi, ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất cá nuôi, người nuôi cần có kế hoạch chăm sóc mỗi ngày để kịp thời phát hiện những biểu hiện xấu như cá nổi đầu kéo dài do thiếu oxy, cá bệnh... xuất hiện trong mô hình để có giải pháp kỹ thuật xử lý thích hợp, đảm bảo đơặc hiệu quả các mô hình.
5. Thu hoạch
Cá nuôi trong hệ thống có thể đơặc thu hoạch sau 6 - 7tháng nuôi. Trong trường hợp người nuôi ứng dụng theo phương thức nuôi thâm canh trong hệ thống kết hợp cá - gà, cá có thể được thu hoạch sau ít nhất 4 tháng nuôi. Trong quá trình nuôi, phương thức đánh tỉa, thả bù cũng là giải pháp kỹ thuật tích cực để góp phần nâng cao nứng suất trong mô hình.
I. XÂY DỰNG MÔ HÌNH NUÔI CÁ - GÀ KẾT HỢP
1. Chọn vị trí xây dựng mô hình
Những điểm cần lưu ý để chọn vị trí xây dựng mô hình nuôi kết hặp cá - gà được xác định tượng tự như hệ thống nuôi cá- vịt kết hợp hoặc cá - heo .
2. Xây dựng chuồng và ao cho hệ thống nuôi kết hợp
Hệ thống chuồng và ao cho mô hình nuôi kết hợp cá - gà nhìn chung có thể được thực hiện tương tự như mô hình nuôi cá vịt. Điểm khác biệt giữa hai mô hình là phần sân thoáng rộng, tạo điều kiện cho vịt thoạt động hướng về phiá bờ ao, ngược lại nuôi cá mô hình cá- gà thì khu vực này hướng về phía đất liền, đồng thợi sàn chuồng phải có đủ độ cao để bảo vệ sức khỏe gà do ảnh hưởng từ độ ẩm môi trường. Thông thường chuồng được xây dựng theo qui cách 8 con/m2.
II. BIẾN PHÁP KỸ THUẬT NUÔI MÔ HÌNH CÁ - GÀ
1. Số lượng cá thả nuôi
Cũng như mô hình nuôi kết hặp cá - vịt hoặc cá heo, số lượng cá thả ở mô hình nuôi cá - gà tùy thuộc vào số lượng gà thả nuôi và diện tích mặt nước hiện có ở hệ thống. Thực tiễn nghiên cứu và sản xuất cho thấy mật độ gà thả nuôi là 4500 - 5000 con/ha sẽ cung cấp đủ lượng phân có thể làm nguồn thức ăn trực tiếp cho cá rô phi nuôi trong hệ thống với mật độ thả là 1,6 - 2 con/m2.
2. Hỗn hợp các loài cá thả nuôi trong mô hình
Bên cạnh loài cá rô phi được khuyến cáo là đối tượng nuôi chính trong mô hình, với phương thức nuôi ghép mà tập quán người dân ở vùng ĐBSCL ưa thích, loài và tỉ lệ ghép giữa các loài nuôi có thể được khuyến cáo như sau
· Cá rô phi 70%
· Cá lóc 20%
· Cá chép hay cá hường 10%
Hoặc
· Cá rô phi 70%
· Cá trê lai 20%
· Cá chép hoặc cá hường 10%
3. Thức ăn bổ sung cho mô hình nuôi
Cũng như các mô hình cá - heo và cá vịt, trong trường hợp cá thả nuôi nhiều hơn 1,6 - 2 con/m2 hoặc ao nuôi được đầu tư khai thác như một dạng nuôi thâm canh thông thường với các đối tượng như rô phi, trê lai, lóc... lúc này thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến từ các phụ phẩm nông nghiệp như cám, tấm, bột cá, cá tạp và vitamine... phải được bổ sung ngày 2 lần với khẩu phần từ 3 - 5 % so với trọng lượng cá thả nuôi, đồng thời lượng thức ăn này cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự tăng trọng của cá nuôi trong mô hình sau mỗi tháng kiểm tra.
4. Chăm sóc và quản lý mô hình
Hoạt động chăm sóc và quản lý mô hình nuôi tương tự như ở mô hình nuôi cá - vịt. Tuy nhiên do chất lượng dinh dưỡng ở chất thải gà cao rất dễ làm ô nhiễm môi trường nuôi, ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất cá nuôi, người nuôi cần có kế hoạch chăm sóc mỗi ngày để kịp thời phát hiện những biểu hiện xấu như cá nổi đầu kéo dài do thiếu oxy, cá bệnh... xuất hiện trong mô hình để có giải pháp kỹ thuật xử lý thích hợp, đảm bảo đơặc hiệu quả các mô hình.
5. Thu hoạch
Cá nuôi trong hệ thống có thể đơặc thu hoạch sau 6 - 7tháng nuôi. Trong trường hợp người nuôi ứng dụng theo phương thức nuôi thâm canh trong hệ thống kết hợp cá - gà, cá có thể được thu hoạch sau ít nhất 4 tháng nuôi. Trong quá trình nuôi, phương thức đánh tỉa, thả bù cũng là giải pháp kỹ thuật tích cực để góp phần nâng cao nứng suất trong mô hình.
Đề cương ôn tập môn học: “Kỹ thuật nuôi cá tăng sản”
Đề cương ôn tập môn học: “Kỹ thuật nuôi cá tăng sản”
I. Chương I
1. Đặc điểm môi trường nước ao nuôi nước tĩnh (yếu tố thuỷ lý thuỷ hoá)
2. Các hình thức nuôi cá ao nước tĩnh? Cách chọn đối tượng và tổ hợp cá nuôi? Cho ví dụ minh họa một tổ hợp cá nuôi ghép?
3. Đặc điểm ao nuôi nước tĩnh? chọn vị trí xây dựng ao, kết cấu ao nuôi? Quy trình kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi? Vai trò của việc cải tạo ao nuôi?
4. Thả giống: tiêu chuẩn kỹ thuật chọn cá giống, cỡ giống và mật độ nuôi, cách thả giống?
5. Thức ăn và chế độ cho ăn:
4.1. Các loại thức ăn tự nhiên? Biện pháp thúc đẩy sự phát triển của thức ăn tự nhiên?
4.2. Các loại thức ăn nhân tạo? Yêu cầu đối với thức ăn nhân tạo?
4.3. Hệ số thức ăn (HSTA)? Các yếu tố ảnh hưởng đến HSTA? Biện pháp làm giảm hệ số thức ăn?
4.4. Quản lý thức ăn: lượng thức ăn và khẩu phần cho ăn? Cách tính lượng thức ăn/ngày? Chế độ cho ăn và cách cho ăn?
6. Biện pháp quản lý và chăm sóc ao nuôi (quản lý ao và môi trường, xác định tốc độ sinh trưởng, nguyên tắc phòng và trị bệnh cá nuôi?
7. Biện pháp thu hoạch?
II. Chương II
8. Kỹ thuật nuôi cá ao nước chảy: xây dựng ao; cải tạo ao; thả giống; thức ăn và chế độ cho ăn; chăm sóc, quản lý và thu hoạch?
III. Chương IV
9. Kỹ thuật nuôi cá ruộng: vai trò nuôi cá ruộng, các hình thức nuôi, thiết kế ruộng nuôi cá, chọn đối tượng nuôi, mật độ, thức ăn và cho ăn, chăm sóc, quản lý và thu hoạch?
IV. Chương V
10. Các mô hình nuôi tổng hợp: Vai trò các mô hình nuôi cá tổng hợp, mối liên quan giữa các mắc xích trong mô hình nuôi tổng hợp (vẽ sơ đồ và giải thích), trình bày mô hình nuôi tổng hợp V-A-C? Trình bày mô hình nuôi cá-heo, cá vịt, cá gà
I. Chương I
1. Đặc điểm môi trường nước ao nuôi nước tĩnh (yếu tố thuỷ lý thuỷ hoá)
2. Các hình thức nuôi cá ao nước tĩnh? Cách chọn đối tượng và tổ hợp cá nuôi? Cho ví dụ minh họa một tổ hợp cá nuôi ghép?
3. Đặc điểm ao nuôi nước tĩnh? chọn vị trí xây dựng ao, kết cấu ao nuôi? Quy trình kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi? Vai trò của việc cải tạo ao nuôi?
4. Thả giống: tiêu chuẩn kỹ thuật chọn cá giống, cỡ giống và mật độ nuôi, cách thả giống?
5. Thức ăn và chế độ cho ăn:
4.1. Các loại thức ăn tự nhiên? Biện pháp thúc đẩy sự phát triển của thức ăn tự nhiên?
4.2. Các loại thức ăn nhân tạo? Yêu cầu đối với thức ăn nhân tạo?
4.3. Hệ số thức ăn (HSTA)? Các yếu tố ảnh hưởng đến HSTA? Biện pháp làm giảm hệ số thức ăn?
4.4. Quản lý thức ăn: lượng thức ăn và khẩu phần cho ăn? Cách tính lượng thức ăn/ngày? Chế độ cho ăn và cách cho ăn?
6. Biện pháp quản lý và chăm sóc ao nuôi (quản lý ao và môi trường, xác định tốc độ sinh trưởng, nguyên tắc phòng và trị bệnh cá nuôi?
7. Biện pháp thu hoạch?
II. Chương II
8. Kỹ thuật nuôi cá ao nước chảy: xây dựng ao; cải tạo ao; thả giống; thức ăn và chế độ cho ăn; chăm sóc, quản lý và thu hoạch?
III. Chương IV
9. Kỹ thuật nuôi cá ruộng: vai trò nuôi cá ruộng, các hình thức nuôi, thiết kế ruộng nuôi cá, chọn đối tượng nuôi, mật độ, thức ăn và cho ăn, chăm sóc, quản lý và thu hoạch?
IV. Chương V
10. Các mô hình nuôi tổng hợp: Vai trò các mô hình nuôi cá tổng hợp, mối liên quan giữa các mắc xích trong mô hình nuôi tổng hợp (vẽ sơ đồ và giải thích), trình bày mô hình nuôi tổng hợp V-A-C? Trình bày mô hình nuôi cá-heo, cá vịt, cá gà
Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2009
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)