Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009

Bài báo cáo tôm thẻ chân trăng

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn!
Ban giám hiệu, các phòng, khoa trường cao đẳng Kinh Tế Kỹ Thuật Cần Thơ đã
tạo điều kiện thuận lợi cho em đi thực tập.
Các thầy cô khoa nông nghiệp đặc biệt là cô Nguyễn Thị Mỹ Vân đã tận tình giúp đỡ em về địa điểm thực tập, cô Trần Ngọc Huệ đã hướng dẫn em viết bài báo cáo.
Ban lãnh đạo công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn, đã tạo điều kiện cho em thực tập, nghiên cứu tại công ty
Anh Hoà (phòng nhân sự công ty CP Thuỷ Sản Trung Sơn), chú Ngô Xuân Tùng (trưởng khu I), anh Phạm Hồng Sơn (trưởng lô 9, 10, 11, 12) và các anh công nhân trực tiếp nuôi ao đã tận tình giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho em trong suốt thời gian thực tập tại công ty.
Tập thể lớp CNT07 đã động viên cổ vũ tinh thần trong quá trình thực tập.
Em xin chân thành biết ơn !
Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2009




Phạm Duy


























MỞ ĐẦU
Hàng năm dân số thê giới không ngừng gia tăng, nhu cầu thực phẩm cho con người trở nên cấp thiết. Riêng nhu cầu về tôm theo thống kê của FAO (tổ chức lương thực và nông nghiệp lien hiệp quốc), sản lượng tôm trên thế giới trên 2,5 triệu tấn (1993) vừa khai thác tự nhiên vừa nuôi trong ao hồ…nhưng vẫn chưa thoả mãn cho nhu cầu con người. Trong khi đó sản lương khai thác ngoài tự nhiên đã bão hoà khoảng 2 triệu tấn (1993). Vì vậy người ta phải chuyển sang nghề nuôi tôm để đáp ừng được nhu cầu. Hiện nay nghề nuôi tôm đã và đang phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Ắ như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philipin, Việt Nam…Trong đó Việt nam nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu nóng quanh năm, thiên nhiên ưu đã đặc biệt là có đường bờ biển dài từ Bắc tới Nam, hệ thống sông ngòi chằng chịt. Do dó nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển ở cả 3 vùng nước ngọt,lợ,mặn. Đối tượng phát triển nhanh là con tôm sú. Nhưng hiện nay do nhu cầ của thị trường thế giới, rủi ro trong sản xuất nên con tôm thẻ chân trắng đang canh tranh vi thế với con tôm sú, với những ưu điểm nổi trội như: tốc độ lớn nhanh, thích hợp với những biến động nhiệt độ, pH, độ mặn rộng, sức đề kháng cao và ít bị mắc một số bệnh nguy hiểm. Chất lượng thịt cua tôm thơm ngon, chắc, tỉ lệ thịt chiếm trên 60% trọng lượng thịt.
Ở nước ta vài năm gần đây tôm thẻ chân trắng được nuôi rộng rãi ở các tĩnh như: Bạc Liêu, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận…Tuy nhiên, thời gian gần đây khi có chỉ thị của bộ NN và Phát Triển Nông Thôn về phát triển của đối tượng này không ít người nuôi tôm sú đã để ý tới việc nuôi tôm thẻ chân trắng.
Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi mới, những nghiên cứu trong nước về loài tôm này chưa nhiều về giống và quy trình nuôi trong điều kiện môi trường đất, nước. Hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng dựa trên quy trình nuôi tôm sú. Do vậy tiếp tục tìm hiểu kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng trong ao nuôi thâm canh là cần thiết để mang lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo nghề nuôi tôm phát triển ổm định.
Mục tiêu đề tài: hoàn thiện quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm theo mô hình công nghiệp, không dùng kháng sinh và các loại thuốc có hại tới người sử dụng, nhằm mục tiêu xuất khẩu tôm sạch qua nước ngoài.

















PHẦN 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1.1. Giới thiệu về đối tượng nghiên cứu:
1.1.1. Nguồn gốc tôm thẻ chân trắng – Penaeus vannamaei:
Tôm thẻ chân trắng - P. vannaeus có nguồn gốc từ châu Mỹ, nuôi phổ biến ở các nước nam Mỹ. Du nhập vào nước ta khoảng năm 2001 (fisternet.gov.vn).
1.1.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng:
1.1.2.1. Trên thế giới:
Có nhiều nước Mỹ La Tinh ở bờ Đông Thái Bình Dương có nghề khai thác tôm chân trắng như Pêru, Êquađo, Êl Sanvađo, Panama, Costa Rica. Do nguồn lợi tôm rất ít và lại biến động nên nghề khai thác tôm không phát triển. Năm 1992 - 1993 có sản lượng kỷ lục là 14 nghìn tấn thì riêng Êquađo chiếm 12 nghìn tấn. Tới năm 1997 sản lượng chỉ còn 4,5 nghìn tấn và năm 1999 lại tăng lên 8 nghìn tấn. Nhìn chung sản lượng khai thác tự nhiên không đáng kể. Nguồn lợi tôm tự nhiên được khai thác chủ yếu là tôm bố mẹ phục vụ cho nghề nuôi tôm nhân tạo rất phát triển ở khu vực. Ngoài ra việc vớt tôm giống tự nhiên phục vụ nuôi nhân tạo cũng có vai trò quan trọng.
1.1.2.2. Sản lượng tôm nuôi nhân tạo:
Tôm chân trắng là đối tượng nuôi nhân tạo quan trọng thứ nhì (sau tôm sú) trên thế giới, còn ở châu Mỹ là số 1. Sản lượng nuôi ở châu Mỹ như sau :
Năm
Sản lượng (1.000T)
1990
86
1992
132
1994
107
1995
140
1997
169
1998
191
1999
140
2000
90 (dự tính)


Năm 1998 sản lượng đạt mức kỷ lục là 191 nghìn tấn chiếm 23% tổng sản lượng tôm nuôi thế giới. Các năm 1999 - 2000 dịch bệnh đốm trắng tàn phá nặng nề tôm nuôi ở châu Mỹ (chủ yếu là tôm chân trắng). Chỉ sau 2 năm sản lượng giảm quá một nửa. Như vậy là sau một thập kỷ sản lượng tôm chân trắng của châu Mỹ lại quay về vị trí ban đầu. Năm 2000 theo thống kê sơ bộ sản lượng tôm chân trắng chỉ còn chiếm 11% sản lượng tôm nuôi thế giới.
1.1.2.3. Các nước nuôi chủ yếu:
Ở châu Mỹ có 12 quốc gia nuôi tôm chân trắng. Vào thời kỳ hưng thịnh (1998) sản lượng của chúng chiếm hơn 90% sản lượng tôm nuôi ở Tây Bán cầu. Sau đây là các nước nuôi cho sản lượng cao.
Êquađo :Từ lâu Êquađo đã là nước nuôi tôm nổi tiếng trên thế giới và luôn luôn ở tốp dẫn đầu cho tới năm 1999.
Mêhicô : Thành công lớn của Êquađo về nuôi tôm chân trắng xuất khẩu không chỉ tạo ra phong trào nuôi rầm rộ ở Mêhicô mà còn ở hàng loạt các nước Mỹ La Tinh (kể cả Mỹ). Mêhicô nhanh chóng trở thành nước nuôi tôm chân trắng lớn thứ nhì châu Mỹ
Panama : Đứng hàng thứ ba về nuôi tôm chân trắng
Các nước khác : Tiếp theo 3 nước dẫn đầu về nuôi tôm chân trắng là Êquađo, MêhicôPanama là các nước Mỹ La tinh khác như Belize, Vênêzuêla, Pêru, Colômbia ... Các nước này đều có các kế hoạch đầy tham vọng về phát triển nuôi tôm chân trắng xuất khẩu sang Mỹ. Như đã nêu, dịch bệnh đốm trắng đã lan rộng ra khắp châu Mỹ trong 2 năm 1999 - 2000 đã gây tổn thất lớn cho nhiều nước mới bắt đầu phát triển nuôi tôm. Nếu không sớm tìm được các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và phòng ngừa dịch bệnh thì có thể phong trào nuôi tôm chân trắng ở khu vực vừa mới phát động rất sôi nổi sẽ bị ảnh hưởng lớn.
1.1.2.4. Tôm chân trắng đang được di giống từ Đông sang Tây Thái Bình Dương:
Sau khi được nhiều nước châu Mỹ nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống sang nuôi ở Ha Oai và Hoholulu của Mỹ. Từ đây tôm chân trắng lan sang Đông Á và Đông Nam Á.
Trung Quốc là nước châu Á quan tâm tới tôm chân trắng sớm nhất. Từ năm 1998 họ đã công bố nuôi tôm chân trắng thành công và sẵn sàng chuyển giao công nghệ (cung cấp con giống và kỹ thuật nuôi) cho các nước châu Á nào muốn nhập nội. Năm 2000 vừa qua có thông tin nói rằng Trung Quốc đã xuất khẩu sản phẩm tôm chân trắng, nhưng không rõ nhiều hay ít. Tuy nhiên, ở thị trường nội địa của Trung Quốc thì người tiêu dùng chưa mặn mà với đối tượng mới này.
Nhiều nước châu Á khác như Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Việt Nam ... cũng đã nhập nội tôm chân trắng để nuôi với hy vọng đa dạng hoá các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú như hiện nay. (trích ở fisternet.gov.vn)
1.1.2.2 Ở Việt Nam:
Thứ tư, 30 Tháng một 2008. Bộ NN-PTNT đồng ý cho phép các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ và ĐBSCL nuôi tôm chân trắng theo hình thức thâm canh, nhưng phải đảm bảo các điều kiện theo tiêu chuẩn 28 mà Bộ vừa ban hành. Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận vẫn được nuôi tôm chân trắng theo nhu cầu của nhà đầu tư và nằm trong vùng quy hoạch của địa phương.
Chủ trương này của Bộ NN-PTNT được cụ thể hoá tại Chỉ thị 228 về việc phát triển nuôi tôm chân trắng, do Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng ký ngày 25/1. Theo đó, trại sản xuất tôm giống tại các tỉnh thuộc ĐBSCL phải nằm trong vùng sản xuất giống tập trung đã được Bộ quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, có công suất 500 triệu tôm PL15 trở lên.
Riêng đối với trại giống tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận có thêm yêu cầu là phải nằm trong vùng đã được địa phương quy hoạch, nhưng công suất giảm một nửa so với trại tôm ở ĐBSCL (tối thiểu 250 triệu tôm PL15/năm).
Việc nuôi tôm phải được thực hiện nghiêm theo tiêu chuẩn 28 TCN 191: 2004 vùng nuôi tôm; điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2004/-BTS, ngày 14/1/2004, của Bộ Thủy sản trước đây. Bộ NN-PTNT yêu cầu UBND các tỉnh chỉ đạo Sở NN-PTNT các tỉnh, các ban ngành địa phương quản lý, hướng dẫn phát triển nuôi tôm chân trắng theo kế hoạch, quy hoạch. Đồng thời, cần kiểm tra và xử lý nghiêm những trường hợp nuôi tôm chân trắng không đúng quy định, sản xuất lưu hành tôm giống không đạt tiêu chuẩn chất lượng để tôm chân trắng thoát ra các vùng nước xung quanh, gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh vùng nuôi. Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng yêu cầu Vụ Nuôi trồng Thuỷ sản sớm xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống, trại sản xuất giống, tiêu chuẩn về tôm bố mẹ, tiêu chuẩn tôm chân trắng thâm canh.
Cục HTX và Phát triển nông thôn phối hợp với Vụ Nuôi trồng Thủy sản chỉ đạo địa phương nghiên cứu tổ chức sản xuất để các DN chế biến xuất khẩu tham gia nuôi tôm chân trắng, xây dựng các mô hình HTX, tổ hợp tác, cộng đồng, khuyến khích đầu tư, tạo mối liên kết 4 nhà (khoa học - sản xuất - đầu tư - doanh nghiệp) để phát triển tôm chân trắng tạo nguồn nguyên liệu an toàn trên cả nước
Tôm chân trắng đang nuôi ở nước ta là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm phát triển tốt, cho năng suất cao, giá thành thấp, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu
Song việc nuôi tôm thẽ chân trắng hiện chỉ hạn chế ở một số tỉnh, thành nhất định. Thời gian qua, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu sản xuất giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được cải thiện.
Tôm chân trắng đã và đang nuôi phát triển theo chiều hướng tốt trên vùng đất thịt, đất cát từ Quảng Ninh đến Bình Thuận. Sản lượng tôm chân trắng chiếm 5-7% sản lượng tôm nuôi trên phạm vi cả nước. Nhiều cơ sở nuôi đạt năng suất cao, từ 12-14 tấn/ha, hiệu quả kinh tế khá, thị trường thế giới có nhu cầu lớn.
Thống kê của Bộ NN-PTNT cho thấy, tại các tỉnh ĐBSCL, việc nuôi tôm sú cũng bị “đe dọa” do phải cạnh tranh gay gắt với tôm chân trắng. Giá thành nuôi 1kg tôm chân trắng nguyên liệu chỉ gần 30.000 đồng, trong khi nuôi 1kg tôm sú tốn 65.000-75.000 đồng, nếu bán ở mức đó thì người nuôi thường bị lỗ. Thị phần mặt hàng tôm sú chế biến giảm mạnh do ảnh hưởng của việc tăng sản lượng xuất khẩu tôm chân trắng từ các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan. Trong khi đó, người tiêu dùng thế giới có xu hướng chuyển qua ăn tôm chân trắng do giá loại tôm này đang rẻ hơn tôm sú Việt Nam từ 30-50%. Giá tôm sú nguyên liệu tại Cà Mau đang ở mức 160.000 đồng/kg loại 20 con; 104.000 đồng/kg loại 30 con. Đây là một thực trạng đáng lo ngại: tôm sú khó cạnh tranh, trong khi đó tôm chân trắng chiếm khoảng gần 70% tổng sản lượng tôm toàn cầu. Do vậy, mặc dù cho phép đa dạng hoá đối tượng nuôi, Bộ NN-PTNT khuyến cáo trong những năm tới tôm sú vẫn là đối tượng nuôi chủ lực tại ĐBSCL. Chủ trương của Bộ là cho phép nuôi tôm chân trắng để đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập, tận dụng tiềm năng diện tích đủ điều kiện nuôi. Song, cần tránh tình trạng nuôi ồ ạt không đủ điều kiện dẫn đến rủi ro đáng tiếc xảy ra. (trích ở
www.vietbao.vn)
Tôm thẻ chân trắng phát triển ở một số tỉnh như:
- Ninh Thuận: năm 2007 thả nuôi khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch đạt trên 5.000 tấn. Năng suất bình quân nuôi trên cát đạt 12 tấn/ha. Đến cuối năm 2007 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trong toàn tỉnh là 250 ha, năng suất bình quân đạt trên 10 tấn/ha (trích http://vndgkhktnn.vietnamgateway.org)
- Quảng Nam: Ngày 25/5/2009, ông Võ Văn Năm, Phó Giám dốc Sỏ NN&PTNT tỉnh Quảng Nam cho biết, nông dân nuôi tôm thẻ chân trắng tại Quảng Nam đang bội thu. Đây là một tin vui bởi vì theo thống kê vụ này, cả tỉnh có 1.400 ha tôm thẻ chân trắng, năng suất bình quân đạt 10 tấn/ha, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. sáng ngày 25/5, giá bán loại tôm này là 45.000 đồng/kg (thấp hơn cùng kỳ năm ngoái 10.000 đồng/kg). Tuy nhiên, với mức giá này, người nuôi tôm vẫn có lãi 200 triệu đồng/ha.
- Bạc Liêu: Nuôi thử nghiệm thành công tôm thẻ chân trắng Sau thời gian nuôi thử nghiệm hơn 20ha tôm thẻ chân trắng tại thị xã Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) cho thu hoạch với năng suất đạt trung bình từ 8-10 tấn/ha, các chuyên gia đã đưa ra kết luận: Tôm thẻ chân trắng nuôi theo mô hình công nghiệp phù hợp với vùng đất ven biển Bạc Liêu, đặc biệt dọc theo tuyến đê biển thuộc các huyện Hòa Bình, Đông Hải, thị xã Bạc Liêu. Theo tính toán, hiện giá 1 kg tôm thẻ thương phẩm cỡ 80-100 con/kg từ 48.000-50.000 đồng, trong đó chi phí đầu tư nuôi mất từ 35.000 - 40.000 đồng, cho lợi nhuận sau chi phí từ 10.000-15.000 đồng; với năng suất từ 8-10 tấn/ha, sẽ cho thu nhập khoảng trên 100 triệu đồng/ha. Nếu tôm kích cỡ lớn, lợi nhuận sẽ tăng lên cao hơn. Với kết quả thành công bước đầu, tỉnh Bạc Liêu có kế hoạch mở rộng quy hoạch diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng bền vững lâu dài; cho phép mở rộng diện tích nuôi tại Công ty Duyên Hải (thị xã Bạc Liêu), Công ty nuôi trồng thủy sản Vĩnh Hậu (Hòa Bình) và khu vực giữa tuyến đê biển, đê Trường Sơn kéo dài đến giáp ranh xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, người dân trong vùng này đang gặp khó khăn về vốn, kỹ thuật, đặc biệt là nguồn con giống rất hạn chế.
- Kiên Giang: Theo ông Hứa Thanh Hà-Phó phòng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn huyện Kiên Lương (Kiên Giang): Hiện nay, các chủ trang trại trong huyện đang thu hoạch vụ tôm thẻ chân trắng đầu tiên sau 3 tháng nuôi thả, năng suất bình quân đạt từ 10-12 tấn/ha, với giá bán 60.000-65.000 đồng/kg (loại 70-75 con/kg), tính ra mỗi ha lợi nhuận khoảng 250 triệu đồng, cao hơn nhiều so với tôm sú.
Tôm thẻ chân trắng có ưu thế là thời gian nuôi ngắn hơn, tôm phát triển đồng đều, sử dụng nguồn thức ăn cho tôm ít hơn và giá cao hơn tôm sú khoảng 5%. Tuy nhiên, qui trình kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng được thực hiện nghiêm ngặt hơn so với nuôi tôm sú, nhất là khâu xử lý ao nuôi, môi trường nước và nhiều yếu tố khác có liên quan quá trình phát triển của con tôm. Một khó khăn nữa là tôm giống phải nhập về từ các tỉnh miền Trung với giá thành cao tù 50-55 đồng/con. Còn muốn sản xuất tôm giống thì các doanh nghiệp lớn, có công nghệ cao mới có thể sản xuất được và phải nhập giống bố mẹ từ nước ngoài về.
Huyện Kiên Lương hiện có 120 ha tôm thẻ chân trắng được Sở Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang cho phép nuôi theo mô hình công nghiệp và do một số công ty như Trung Sơn, Minh Phú, Pim (Hạ Long) triển khai thực hiện. Đây cũng là địa điểm nuôi tôm thẻ chân trắng đầu tiên thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên (Kiên Giang) trong thời gian gần đây và đạt hiệu quả cao. Sắp tới các công ty nuôi tôm ở đây sẽ đầu tư dây chuyền sản suất tôm giống chân trắng tại chỗ để giảm giá thành sản suất và cung cấp con giống cho bà con ngư dân mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tại khu vực tứ giác Long Xuyên và một số địa bàn khác trong tỉnh.
1.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam:
1.1.3.1. Thuận lợi:
- Thời gian nuôi tôm thẻ chân trắng ngắn khoảng 3-3,5 thang thì thu hoạch, đăc điểm này giúp cho tôm giảm được nhiều rủi ro vì thời gian càng dài thì khả năng bi nhiễm bệch càng nhiều, tồn nhiều chi phí thức ăn, thuốc…
- Năng suất cao hơn tôm sú có thể tới 2-3 lần (12-24 tấn/ha/vụ), chi phí sản suất thấp hơn 20-30% so với tôm sú.
-Nhu cầu tôm thẻ chân trắng trên thế giới rất lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ và Nhật Bản nhu cầu ngày càng tăng.
1.1.3.2. Khó Khăn:
3/3/2009 Việc nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát, và đã có cảnh báo nguy cơ của phong trào này.
Phong trào
Thị trường thế giới giảm tiêu thụ tôm cỡ lớn đắt tiền, tăng lượng tiêu thụ tôm cỡ nhỏ rẻ tiền, mở ra cơ hội cho tôm thẻ chân trắng, với thời gian nuôi ngắn hơn tôm sú, thu lợi nhanh.
Kế hoạch của Bộ NN-PTNT, năm 2009 các tỉnh ĐBSCL nuôi sản lượng khoảng 100.000 tấn tôm thẻ chân trắng, chiếm 26,3 phần trăm tổng sản lượng tôm nuôi nước lợ. Thống kê đến giữa tháng 2/2009 của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), ĐBSCL lên kế hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng 2.148 ha nhưng mới thả nuôi khoảng 75 ha (3,4 phần trăm).
Việc thả nuôi tôm thẻ chân trắng đang chạy theo phong trào, khó kiểm soát và nhiều hộ nuôi ngoài vùng quy hoạch. Tại Trà Vinh, đến nay có trên 50 triệu con tôm thẻ chân trắng được thả nuôi trên diện tích 71 ha mặt nước, trong đó chỉ có khoảng 20 ha được cơ sở giáo dục Bến Giá, xã Long Hữu (Duyên Hải) thả nuôi trong vùng quy hoạch, có hiệu quả khá từ 80 - 100 triệu đồng/ha/vụ. Số còn lại phần lớn là nuôi nhỏ lẻ ngoài vùng quy hoạch, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh nên bị thua lỗ.
Dịch bệnh
Nhược điểm lớn nhất của con tôm thẻ chân trắng là bị nhiều loại dịch bệnh nhất là bệnh taura. Các tỉnh ĐBSCL lại phải nhập con giống từ các tỉnh miền Trung nên khó kiểm soát làm cho kết quả nuôi không ổn định.
Huyện Duyên Hải (Trà Vinh), tại thời điểm hiện nay chỉ có 20/53,2 ha nuôi tôm thẻ chân trắng có hiệu quả. Ông Lâm Minh Thế, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Duyên Hải, cảnh báo: “Các tỉnh miền Trung có ưu thế lựa chọn con giống có chất lượng nên con giống có chất lượng thấp hơn chắc chắn sẽ được đổ về các tỉnh ĐBSCL và tình hình dịch bệnh trên tôm thẻ chân trắng có thể trầm trọng hơn”.
Việc kiểm tra chất lượng con giống nhập vào các tỉnh là cực kỳ khó khăn. Bởi tôm giống được nhập bằng nhiều con đường (đường bộ, đường thủy…), nhất là nhập lậu. Việc quản lý và kiểm dịch con giống của ngành chuyên môn cũng chưa thực hiện được, nguồn giống phần lớn cung cấp qua trung gian của các đơn vị ngoài tỉnh cho người nuôi khi có nhu cầu.
Ông Robin, một chuyên gia Mỹ về lai tạo và cải tiến giống tôm, đang làm việc cho Tập đoàn C.P (tập đoàn cung cấp giống thủy sản, heo, gà; kinh doanh thức ăn, thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản), nói: “Bệnh taura trước đây đe dọa nghiêm trọng tôm thẻ chân trắng thì bây giờ không còn là bệnh đáng ngại nhất vì đã có nhiều loại giống kháng bệnh này. Bệnh đáng ngại nhất là chăm sóc không kỹ lưỡng, quy trình nuôi không bảo đảm”.
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
Thống kê của Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ NN-PTNT), kế hoạch năm 2009, các tỉnh ĐBSCL nuôi 566.069 ha tôm sú. Đến hết tháng 1/2009 mới nuôi 78.822 ha (13,9%). Theo các quy định hiện hành của Bộ NN-PTNT cũng như các địa phương, tôm thẻ chân trắng phải nuôi thâm canh trong vùng qui hoạch để tránh gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh. Thực tế, vùng nuôi tôm thẻ chân trắng rất khó cách ly với vùng nuôi tôm sú.
Ông Phạm Nam Dương - PGĐ Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh nói: “Cần xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm”. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn việc xử phạt đối với những hành vi vi phạm.
Một vấn đề khác là tôm thẻ chân trắng không dễ tiêu thụ, nhất là trong điều kiện nuôi nhỏ lẻ, rải rác hiện nay. Vừa qua, người nuôi chủ yếu bán cho thương lái, số lượng rất hạn chế. Mặt khác, nếu đường vận chuyển không thuận lợi, kéo dài thời gian tôm sẽ bị giảm chất lượng (gãy đầu, xuống màu,…).
Anh Lê Vũ Phương, một hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Long Hữu (Duyên Hải, Trà Vinh), cho biết: “Vụ thẻ nuôi tôm thẻ đầu tiên tôi thả 500.000 con, mật độ 80 con/m2, sau 2,5 tháng thu hoạch, năng suất bình quân 8,6 tấn/ha, giá bán từ 45.000 - 50.000 đồng/kg. Lợi nhuận khá, nhưng khó tiêu thụ”.
Khó khăn nhất hiện nay là người nuôi tôm thẻ chân trắng phải dùng tiền mặt cho các chi phí thức ăn, con giống, thuốc thú y, do cơ sở dịch vụ cung cấp từ ngoài tỉnh không bán chịu như đối với người nuôi tôm sú.
Vốn đầu tư ban đầu lại khá lớn vì mật độ thả nuôi đến 80-100 con/m2, dày gấp 7-10 lần so với tôm sú, mà giá con giống bằng hoặc cao hơn con tôm sú. Người nuôi tôm sú đã gặp khó về vốn, nuôi tôm thẻ chân trắng càng khó hơn.
Hiện con giống tôm thẻ chân trắng được cung cấp chủ yếu từ các Cty CP, AND, Việt-Úc và Trại giống Anh Việt. Việc quản lý chất lượng con giống, đặc biệt là kiểm soát dịch bệnh trên con giống chưa chặt chẽ, nguy cơ tôm thẻ chân trắng gây bệnh lan rộng, phát tán sang con tôm sú là rất lớn. ( trích
http://www.vietlinh.vn)
1.2. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng:
1.2.1. Đặc tính phân loại và hình thái và phân bố:
1.2.1.1. Đặc tính phân loại:
Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp ) được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei
1.2.1.2. Hình thái, cấu tạo, phân bố
1.2.1.3. Hình thái, cấu tạo:
Cũng như các loài tôm cùng họ Penaeid, tôm chân trắng cái ký thác hoặc rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.

Hình 1.2.1.2. Hình thái bên ngoài của tôm hẻ chân trắng.
1.2.1.4. Phân bố:
Tôm thẻ chân trắng phân bố chủ yếu ở vùng nước ven bờ phía Đông Thái BìnhDương từ phía bắc Peru đến phía nam Mehico. Tôm phân bố tập trung ở vùng ven bờ của Ecuador.
Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã di giống ra nhiều vùng biển cả bờ tây lẫn bờ đông của châu Mỹ, ngoài ra tôm còn di giống qua Hawaii và nhiều nước Đông Nam Ắ.
1.2.2. Tập tính sống:
Tôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểmTôm thẻ chân trắng sống ở các vùng biển tự nhiên có các đặc điểm:
Đáy cát, có độ sâu khoảng 70m, nhiệt độ nước ổn định từ 25-30oC, độ mặn từ 28-34o/oo, ph 7,7-8,3 (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển, gần bờ, tôm con ưa sống ở khu vực giàu thức ăn.
Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn, tôm lột xác về đêm, khoảng 20 ngày lột xác một lần. Nuôi trong phòng thí nghiệm ít thấy chúng ăn thịt lẫn nhau.
1.2.3. Tính thích ứng với môi trường sống:
Tôm thẻ chân trắng có tính thích nghi mạnh đối với sự thay đổi của môi trường sống. Lên khỏi mặn nước khá lâu mà vẫn không chết. Cỡ tôm từ 1-6cm đang sống ở độ mặn 20%o ở bể ương, khi di chuyển vào các ao nuôi tôm, có thể sống trong phạm vi độ mặn 5-50%o‑, thích hợp nhất là 10-40%o, nếu dưới 5%o hoặc trên 50%o tôm sẽ chết dần, những con tôm cỡ 5cm có sức chịu đựng tốt hơn cỡ tôm dưới 2cm .Tôm sống tự nhiên ở biển có nhiệt độ ổn định 25-32oC, vẫn sống được khi nhiệt độ thay đổi lớn. Đang sống ở bể ương, nhiệt độ nước là 15oC, thả vào ao có nhiệt độ 122-28oC tôm vẫn sống 100%, dưới 9oC tôm chết dần. Tăng dần 41oC, cỡ tôm dưới 4cm và trên 4cm chỉ chịu được tối đa 12h rồi chết. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
1.2.4. Tập tính ăn và nhu cầu dinh dưỡng:
Tôm thẻ chân trắng là loại tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức ăn của nó cần các thành phần như: protid, lipid, glucid, vitamin vả muối khoáng…thiếu hay không cẩn đối đều ảnh hưởng tới sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Hệ số chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường lượng thức ăn chỉ cần bằng 5% trọng lượng tôm( thức ăn ướt). Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa vả cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về lượng thưc ăn lên gấp 3-5 lần. Tôm thẻ chân trắng không cần lượng protein nhiều như tôm sú, 35% protein được coi là thích hợp hơn cã, nếu thức ăn thêm mục tươi tôm rất ưa chuộng ( trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.5. Sinh trưởng và tuổi thọ:
Trong điều kiện sinh thái tự nhiên tôm bột 4cm đến cỡ tôm thu hoạch trung bình 40g (chiều dài 14cm) mất 180 ngày. Tôm nhỏ thay vỏ vài giờ, tôm lớn cần 1-2 ngày, tuổi thọ trung bình của tôm ít nhất trên 32 tháng. (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tai Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần. Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. Một điều chưa giải thích được là tôm chân trắng nuôi trong nước ao lớn mau (50%) hơn là nuôi trong nước giếng đã được khử trùng, có lẽ nhờ ảnh hưởng của cộng đồng vi sinh vật trong nước ao theo kết quả khảo cứu của Viện hải dương học Hawaii. ( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN).
1.2.6. Sinh sản:
1.2.7. Mùa vụ sinh sản:
Ở biển tự nhiên đều bắt được tôm mẹ mang trứng. Ở bắc Ecuador mùa đẻ rộ vào tháng 4-5, trong khi đó ở Peru mùa tôm đẻ từ thang12-4 năm sau (trích trong Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN).
Tôm thẻ chân trắng sinh sản ở loại hình sinh sản túi tinh mở, khác với loại hình chứa túi tinh kín nhu ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự sinh sản mở là : tôm mẹ lột vỏ - thành thục – giao phối(thụ tinh) – đẻ trứng - ấp nở.
1.2.6.2. Kích cỡ và tuổi thành thục:
Thông thường phải từ 12 tháng tuổi trở nên thành thục. (Thái Bá Hà. Ngô Trọng Lư. 2004. NXB NN)
1.2.6.3. Đẻ Trứng và sức sinh sản:
Trong thiên nhiên tôm trưởng thành, giao vỹ, sinh sản trong những vùng biển có độ sâu 70m với nhiệt độ 26-28oC, độ mặn khá cao khoảng 35%o.( Trích trong Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Vũ Thế Trụ. 1993. NXB NN)
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào thời gian 9 giờ tối đến 3 giờ sáng. Thời gian bắt đầu đẻ cho tới khi kết thúc chỉ mất 1-2 phút. Trứng sau khi đẻ có màu vỏ đậu xanh. Các chùm tinh của tôm đực cũng được tái sinh nhiều lần. Tôm cái trứng đã thành thuc nhưng không được thụ tinh, vẫn có thể đẻ trứng bình thường nhưng không thụ tinh.
Sau khi đẻ xong trứng trải qua các giai đoạn ấu trùng, tơi1 poslarvae bơi vào gần bờ sông, sau vài thang tôm con trưởng thành và bơi ra biển rồi giao vỹ tiếp.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng lại phát dục tiếp. Con đẻ nhiều nhất 10 lần/năm, thường thì đẻ 3-4 ngày thì lột vỏ.
Số lượng trứng tùy theo kích cỡ của tom6me, tôm mẹ có khối lương tư-35g, lượng trứng 100.000 – 250.000 hạt, trứng có đường kính 0,22mm, sự phát triển của trứng sau khi đẻ đến giai doan đầu tiên của Nauplius diễn ra trong khoảng 14 giờ. (Thái Bá Hồ. Ngô Trọng Lư. 2004 NXB NN)
1.3. Giớ thiệu về công ty CP thủy sản Trung Sơn:
Địa chỉ: Ấp Song Chinh – xã Bình Trị - huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
1.3.1. Lịch sử hình thành:
Dự án của công ty CP thủy sản Trung Sơn tại Kiên Giang được thực hiện vào năm 2004, dự án bắt đầu với 4 ao nuôi tôm sú công nghiệp. Mỗi ao diện tích 1ha. Sau một năm đạt kết quả tốt, đến năm 2005 công ty cho xây dựng thêm 20 ao nữa, năm 2006 mở rông thêm 24 ao, năm 2007 mở thêm 16 ao. Vào cuối năm 2008, sau khi có chỉ thị của bộ Nông nghiệp& phát triển nông thôn về phát triển tôm thẻ chân trắng ở DBSCL và được sự cho phép của sở thủy sản tỉnh Kiên Giang nên công ty đã chuyển toàn bộ diện tích ao nuôi tôm sú sang tôm thẻ chân trắng.

1.3.2. Cơ cấu tổ chức:
Giám Đốc
Phó Giám Đốc
Phòng
Nhân
Sự
Phòng
Kỹ
Thuật
Phòng
Kế
Toán
Phòng
Thí
Nghiệm
Trưởng khu, phó khu
Trưởng Lô
Thủ kho
Công nhân
Hình 1.3.2. Cơ cấu tổ chức của công ty CP thủy sản Trung Sơn